Thứ Bảy, 8 tháng 2, 2014

Giải pháp mới trong phòng ngừa và điều trị bệnh loãng xương

Hiện nay, những tiến bộ ngoạn mục trong thời gian 20 năm qua đã cho ra đời hàng loạt thuốc có hiệu quả quả giảm nguy cơ gãy xương, có thể chia làm 2 nhóm chính: nhớm ức chế tế bào hủy xương Bisphosphonates (như Alendronate, risedronate, zoledronate), Serm (raloxfene), calcitonin… và nhóm kích thích tế bào tạo xương (như strontium ranelate và teriparatide). Tất cả đều đã được thử nghiệm và có hiệu quả giảm nguy cơ gãy xương từ 30% đến 50%. Tuy nhiên, chỉ có zoledronate được chứng minh là có hiệu quả giảm nguy cơ tử vong ở bệnh nhân sau khi bị gãy xương.
Gãy xương làm giảm tuổi thọ bệnh nhân
Loãng xương ảnh hưởng đến 1/3 phụ nữ và 1/5 nam giới trên 50 tuổi. Tuy diễn tiến âm thầm nhưng loãng xương gây hậu quả hết sức nghiêm trọng. Không chỉ giảm độ chắc, cứng của xương, giảm chiều cao, còng lưng…, loãng xương kéo theo nguy cơ bị gãy xương. Đặc biệt, gãy cổ xương đùi sẽ làm tăng tỷ lệ mắc các bệnh khác, quan trọng hơn là làm tăng đột biến tỷ lệ tử vong sau khi gãy xương.
Đã có khá nhiều nghiên cứu trong thời gian gần đây cho thấy những bệnh nhân bị gãy xương cột sống có nguy cơ tử vong tăng gấp 2 lần so với tỉ lệ tử vong trung bình trong dân số. Tuy nhiên, gãy cổ xương đùi mới là là hệ quả nghiêm trọng nhất và nguy hiểm nhất của loãng xương. Nhiều nghiên cứu trên thế giới, kể cả ở Á châu, gần đây cho thấy khoảng 20% nữ và 30% nam bị gãy cổ xương đùi chết trong vòng 1 năm sau khi xương bị gãy.
Acid zoledronic 5mg hiệu quả giảm 70% nguy cơ gãy xương sống và giảm 28% nguy cơ tử vong sau gãy xương
Để đáp ứng điều trị, đặc biệt thuận tiện cho người bệnh trong sử dụng, liệu pháp điều trị loãng xương bằng cách truyền trực tiếp thuốc ức chế hủy xương zoledronic acid 5mg vào tĩnh mạch đang được xem là một giải pháp đột phá trong điều trị loãng xương. Đây là dung dịch tiêm truyền tĩnh mạch chứa 5mg acid zoledronic thuộc nhóm các bisphosphonate chứa nitơ và tác động chủ yếu lên xương. Nó là chất ức chế sự tiêu xương qua trung gian của hủy cốt bào, nói nôm na là thuốc ức hế sự hủy xương.
Như vậy, đối với phụ nữ bị loãng xương sau mãn kinh, chỉ có zoledronic acid 5mg có tác dụng giảm nguy cơ gãy xương, duy trì ổn định hệ xương trong 3 năm ở tất cả các vị trí quan trọng. Kết quả công trình nghiên cứu về sử dụng Bisphosphonate dạng tiêm truyền tĩnh mạch trong việc ngăn ngừa gãy xương ở phụ nữ sau mãn kinh với sự tham gia 7.765 phụ nữ được công bố trên tạp chí Y học New England (1). Sau thử nghiệm cho thấy: so với nhóm sử dụng giả dược, nhóm sử dụng zoledronic acid 5mg có nguy cơ gãy xương thấp hơn 41% cho xương hông và 70% cho xương sống. Trong khi đó, các loại thuốc viên chống loãng xương hiện nay chỉ giúp giảm nguy cơ gãy xương sống ở tỉ lệ từ 40 - 50% mà thôi. Điều đáng chú ý là zoledronic acid còn giảm nguy cơ tử vong sau gãy xương đến 28% (2).
Có bốn yếu tố khiến zoledronic acid 5mg phát huy hiệu quả bảo vệ cao hơn rõ rệt so với các loại thuốc ức chế hủy xương dạng uống:
- Tính khả dụng sinh học 100% - Có ái tính cao hơn với chất khoáng xương. 61% zoledronic acid gắn trực tiếp vào xương và lưu lại ở đó, do đó, sự tiếp xúc của cơ thể với thuốc ở mức tối thiểu trong cả năm.
- Có hiệu quả ức chế hủy cốt bào mạnh hơn.
- Đảm bảo sự tuân thủ điều trị của bệnh nhân bởi chỉ cần truyền 1 liều trong 15 phút để đạt hiệu quả kiểm soát loãng xương đến một năm. GS.BS Trần Ngọc Ân (chủ tịch Hội Thấp Khớp Học Việt Nam) cho biết, cũng giống như các phương pháp điều trị khác hiện nay, bisphosphonate dạng tiêm truyền tĩnh mạch zoledronic acid 5mg chỉ được sử dụng khi có chỉ định của bác sĩ chuyên khoa và cũng có các yêu cầu đặc biệt trước và trong khi sử dụng. So với một vài loại thuốc khác trong điều trị loãng xương, loại thuốc này có thuận lợi hơn cho bệnh nhân bởi liều dùng 1 năm/lần, tác dụng phụ có nhưng không ảnh hưởng lớn; giá cả chấp nhận được. Song song với việc dùng thuốc, để điều trị loãng xương hiệu quả, bệnh nhân nên tiếp tục thực hiện chế độ dinh dưỡng hợp lí giàu can-xi và chế độ sinh hoạt, luyện tập, nghỉ ngơi, thư giãn phù hợp.
HƯƠNG GIANG

Điều trị gãy xương và tái gãy xương do loãng xương

Không tuân thủ phác đồ điều trị là một trong những lý do thường thấy dẫn đến thất bại trong điều trị bệnh loãng xương. Tại sao bệnh nhân thường không tuân thủ phác đồ điều trị và làm thế nào và tái gãy xương do loãng xương có hiệu quả hơn?
Những biến cố không kiểm soát!
Vài tháng trước, cứ thay đổi thời tiết là bác Trần Thị Minh, 63 tuổi ở số 2 ngõ 40 Phan Đình Giót Hà Nội lại thấy nóng âm ỉ trong xương, đau mỏi trong các khớp, cột sống, đau cơ, co cứng cơ… Đi đo mật độ xương tại khoa Cơ Xương khớp BV. Bạch Mai, bác được chẩn đoán là LX và được chỉ định dùng thuốc ức chế hủy xương dạng viên uống tuần/lần cùng với một số thuốc khác. Bác Minh cho biết: “Từ khi phải điều trị LX, tôi thấy rất phiền phức. Về quê giỗ, tết đều phải mang thuốc. Mặc dù đã phải ghi chép, đánh dấu cẩn thận vậy mà vẫn có lúc quên. Chưa kể, mỗi lần uống thuốc phải đứng thẳng hơn nửa tiếng… Thế mà đợt kiểm tra này bác sĩ cho biết, mật độ xương của tôi vẫn ở tình trạng báo động”.
 Biến chứng gãy cổ xương đùi do loãng xương.
PGS.BS Nguyễn Thị Ngọc Lan (Trưởng khoa Cơ Xương Khớp BV. Bạch Mai, Hà Nội cho biết, các loại thuốc ức chế hủy xương như Alendronat, Risedronate, Zoledronate là những thuốc điều trị LX khá hiệu quả, được sử dụng ở nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới. Song thuốc cần phải dùng kéo dài nhiều năm, thậm chí suốt đời nên việc tuân thủ điều trị khá khó khăn. Nhiều BN tưởng là đã khỏi bệnh nên ngưng thuốc (do LX thường không có triệu chứng). Những BN có tuổi thường quên uống thuốc, đến khi biến chứng gãy xương thì đã muộn. Đó cũng là một trong những nguyên nhân sau điều trị, người bệnh LX chỉ có thể giảm được 50% nguy cơ bị gãy xương và tỷ lệ tái gãy xương là rất cao, gấp 2,5 lần so với người không mắc bệnh.
Phòng ngừa và điều trị bằng dịch truyền
PGS.BS Nguyễn Thị Ngọc Lan cho biết, hiện khoa Xương Khớp BV. Bạch Mai đang triển khai phương pháp điều trị mới cho BN LX và gãy xương bằng thuốc ức chế hủy xương zoledronic acid 5mg dạng tiêm truyền tĩnh mạch. Thuốc được truyền trực tiếp vào tĩnh mạch bệnh nhân trong vòng ít nhất 15 phút. Bước đầu sử dụng tại khoa Cơ Xương Khớp BV. Bạch Mai cho thấy hiệu quả tốt. Dưới 10% BN gặp tác dụng phụ như: sốt, đau mình mẩy, đau xương khớp... (xuất hiện trong vòng 1-3 ngày đầu). Tuy nhiên, những BN đau cột sống do lún xẹp đốt sống (biến chứng của LX) được truyền zoledronic acid 5mg đạt hiệu quả giảm đau nhanh chóng (trong vòng 24 giờ sau truyền, BN đã thấy giảm đau rõ rệt). Điều này giúp BN phục hồi chức năng vận động, tránh các biến chứng có thể gây tử vong cho người cao tuổi như: viêm phổi chẳng hạn... Cần lưu ý các chống chỉ định của thuốc là các BN suy thận nặng (có hệ số thanh thải creatinine < 35 ml/phút). Tuy nhiên, thuốc không cần chỉnh liều ở BN suy gan hoặc người cao tuổi (trên 65 tuổi).
Khác với các thuốc ức chế hủy xương dạng uống khác, zoledronic acid 5mg đảm bảo tốt hơn sự tuân thủ điều trị của BN vì chỉ cần truyền 1 liều duy nhất mỗi năm. Bác Nguyễn Văn Khải, 54 tuổi (Bắc Giang) đã điều trị LX bằng Aclasta cho biết: “Tôi có tiền sử bệnh dạ dày. Trước đây, tôi dùng thuốc LX dạng viên nên hay bị đau bụng và cơ thể bứt rứt, khó chịu. Sau khi được bác sĩ thay đổi phác đồ điều trị, chỉ cần truyền thuốc trực tiếp vào tĩnh mạch một lần mỗi năm để bảo vệ xương, tôi thấy nhẹ cả người”.
Theo GS.TS Trần Ngọc Ân, Chủ tịch Hội Khớp học Việt Nam, zoledronic acid 5mg đã được y học thế giới chứng minh về hiệu quả: giảm tỷ lệ gãy xương như: gãy xương hông, gãy xương đốt sống (lún xẹp đốt sống) và gãy các xương khác; tăng mật độ chất khoáng của xương; phòng ngừa gãy xương lâm sàng mới sau gãy xương hông cả ở nam giới và phụ nữ. Tuy nhiên, phương pháp này cần có sự chỉ định và theo dõi sát sao của bác sĩ, BN tuyệt đối không được tự ý sử dụng. Ngoài ra, để phòng ngừa tình trạng LX và điều trị LX, tránh biến chứng gãy xương, BN cần duy trì các bài tập thể dục thông thường có chịu đựng sức nặng của cơ thể (đi bộ, chạy bộ, khiêu vũ, tennis), các bài tập tăng sức mạnh của cơ (bài tập kháng lực, nhấc vật nặng, cử tạ...) nếu không có chống chỉ định (lưu ý là bơi không có tác dụng phòng chống LX). Ngoài ra, cần đảm bảo chế độ ăn giàu canxi trong suốt cuộc đời. Các BN đã LX cần phải tránh ngã. Nếu cần thiết có thể mặc “quần đùi” bảo vệ khớp háng để tránh gãy cổ xương đùi. Khi đã có biến dạng cột sống (gù, vẹo), cần đeo thắt lưng cố định cột sống để trợ giúp cột sống. cột sống để trợ giúp cột sống.
TUYẾT VÂN

Đừng để loãng xương giảm chất lượng cuộc sống

Để căn bệnh loãng xương (LX) khônglàm giảm chất lượng cuộc sống chúng ta, Sức khỏe&Đời sống đã có cuộc trao đổi với PGS.TS. Lê Anh Thư – chủ tịch Hội loãng xương TP.HCM và BS Hồ Phạm Thục Lan – trưởng khoa cơ xương khớp BV. Nhân Dân 115, TP. HCM xung quanh bệnh lý này.
 Sống vui tươi, yêu đời với bộ xương chắc khỏe. Ảnh N. Hưng
Xin bác sĩ cho biết diễn biến phát triển cấu trúc xương như thế nào? Ai và ở tuổi nào dễ bị LX nhất?
PGS.TS.BS. Lê Anh Thư: Xương là một mô sống, luôn thay đổi và tái tạo thông qua chu chuyển xương. Hoạt động này được điều hòa chủ yếu nhờ hai loại tế bào chính: tế bào sinh xương và tế bào hủy xương. Dưới 25 tuổi, hoạt động của các tế bào sinh xương sẽ trội hơn. Nhưng từ tuổi 40 trở đi, hoạt động của các tế bào hủy xương sẽ trội hơn, khối lượng khoáng chất của bộ xương sẽ giảm dần với tốc độ mất xương từ 0,5 - 1% mỗi năm.
Tất cả chúng ta, đến lúc có tuổi (trên 65 tuổi) đều có nguy cơ bị LX. Ở một số người, quá trình LX xảy ra sớm hơn và nặng nề hơn khi có thêm một số yếu tố nguy cơ: thiếu canxi, vitamin D, bị bất động lâu ngày do bệnh tật (chấn thương cột sống), do nghề nghiệp (nhà du hành vũ trụ); bị một số bệnh nội tiết; bị thiểu năng các tuyến sinh dục; suy thận mãn hoặc phải chạy thận nhân tạo lâu ngày; mắc các bệnh xương khớp mãn tính khác. Một số còn do sử dụng các thuốc chống động kinh, thuốc chữa bệnh đái tháo đường, thuốc chống đông và đặc biệt là các thuốc kháng viêm nhóm corticosteroid. Riêng ở phụ nữ, sau khi mãn kinh, tốc độ mất xương sẽ nhanh hơn hẳn nam giới cùng tuổi (khoảng 0,5 - 1% khối lượng xương mỗi năm). Trong 5 – 10 năm đầu của thời kỳ mãn kinh, tốc độ mất xương tăng cao, có thể từ 2 - 4% khối lượng xương mỗi năm.
* Gãy xương là hậu quả cuối cùng của bệnh LX. Nhưng thường thì những xương nào dễ bị gãy nhất? Hậu quả như thế nào?
PGS.TS.BS. Lê Anh Thư: Gãy xương do LX thường gặp ở các vị trí: cột sống, cổ xương đùi, đầu dưới xương cẳng tay. Đây là một biến cố nặng với sức khỏe người có tuổi, xương chậm liền, phải nằm tại chỗ nhiều ngày, thậm chí phải nằm điều trị dài ngày trong bệnh viện. Điều này không những làm tình trạng LX càng nặng lên mà còn kéo theo nhiều nguy cơ rất bất lợi cho sức khỏe người có tuổi như: bội nhiễm đường hô hấp, đường tiết niệu, loét mục ở các điểm tỳ đè... Mặt khác nhiều bệnh lý đi kèm của tuổi tác như: tim mạch, huyết áp, đái tháo đường... cũng góp phần ảnh hưởng đến sức khỏe người bệnh. Gãy xương do LX là nguyên nhân chính gây tàn phế và giảm tuổi thọ cho người có tuổi (theo thống kê ở các nước phát triển có đến 20% người có tuổi bị gãy cổ xương đùi sẽ tử vong trong vòng 6 tháng đến 1 năm đầu, vì các biến chứng do nằm lâu nêu trên).
* Việc xảy ra tai nạn khi còn trẻ liên quan tới xương (gãy chân, đứt dây chằng…) có liên hệ như thế nào với việc LX về sau này hay không, thưa bác sĩ?
- BS. Hồ Phạm Thục Lan: Bị gãy xương lúc còn trẻ do tai nạn hay nguyên nhân thứ phát (còi xương, suy dinh dưỡng, ít hoạt động thể lực, sinh đẻ nhiều lần, bị bệnh mãn tính đường tiêu hóa…) có thể là tín hiệu xương có “vấn đề”. Y văn cho thấy những người bị tai nạn và gãy xương thường có mật độ xương thấp hơn trung bình. Do đó, những người bị gãy xương lúc còn trẻ có nguy cơ tái gãy xương cao do LX khi về già.
Bệnh LX lúc đầu thường không có biểu hiện gì, nhưng khi có các dấu hiệu rõ ràng, khối lượng xương thường đã mất tới 30%. Vậy cần phải làm gì để ngăn ngừa trước khi bệnh phát triển?
- BS. Hồ Phạm Thục Lan: LX với hệ quả gãy xương là một quá trình diễn tiến nặng dần theo thời gian và tuổi tác. Do đó, ngay từ lúc trẻ, cần xây dựng chế độ dinh dưỡng và vận động hợp lý để đạt mức độ đỉnh tối đa của mật độ xương. Bởi, nếu khối lượng xương đỉnh lúc trưởng thành tăng 10% sẽ giảm được 50% nguy cơ gãy xương do LX trong suốt cuộc đời. Và khi về già, cũng cần duy trì chế độ ăn uống lành mạnh và vận động thể lực vừa phải để tránh bị mất xương. Trong dinh dưỡng, nên chú trọng đến các thành tố có ích cho sức khỏe xương. Chú ý đến thức ăn có nhiều canxi (tôm, cá, trứng, sữa…) và cần tận dụng nguồn ánh nắng mặt trời để tổng hợp vitamin D cho cơ thể. Ngoài ra, một lối sống khỏe mạnh, năng vận động, hạn chế thuốc lá, cà phê, rượu đó là những biện pháp thiết thực, có thể ngăn ngừa được nguy cơ LX và giảm được hậu quả gãy xương. Tóm lại, chúng ta cần chủ động phòng bệnh để chất lượng cuộc sống được đảm bảo.
Cảm ơn bác sĩ về cuộc trao đổi này!
TUÂN NGUYỄN & HƯƠNG GIANG

Những thất bại trong điều trị loãng xương

Các phương pháp điều trị loãng xương (LX) hiện nay đang gây cho bệnh nhân (BN) không ít khó khăn và thậm chí còn là một trong những nguyên nhân dẫn đến thất bại trong việc điều trị.
Theo PGS.TS.BS. Lê Anh Thư, Chủ tịch Hội LX TP.HCM cấu tạo xương được điều hòa chủ yếu nhờ hai loại tế bào chính: các tế bào sinh xương và các tế bào hủy xương. Ở tuổi trẻ (dưới 25 tuổi), hoạt động của các tế bào sinh xương sẽ trội hơn các tế bào hủy xương. Từ tuổi 40 trở đi, hoạt động của các tế bào hủy xương sẽ trội hơn các tế bào sinh xương, khối lượng khoáng chất của bộ xương sẽ giảm dần theo tuổi với tốc độ mất xương từ 0,5 - 1% mỗi năm. Riêng ở phụ nữ, sau khi mãn kinh, tốc độ mất xương sẽ nhanh hơn hẳn nam giới cùng tuổi (2 - 4% khối lượng xương trong 5 – 10 năm đầu của thời kỳ mãn kinh).
 Xẹp đốt sống lưng do loãng xương. Ảnh T.N
Tất cả chúng ta, đến lúc có tuổi (trên 65 tuổi) ai cũng bị LX. Đây là hiện tượng LX tiên phát, một tất yếu của quá trình phát triển. LX tiên phát thường xuất hiện trễ, diễn biến chậm, tiến triển từ từ và ít có những biến chứng nặng nề. Trong khi đó, nếu quá trình LX xảy ra sớm hơn, tiến triển nhanh hơn, gây nhiều hậu quả nặng nề như: gãy, xẹp đốt sống, gãy cổ xương đùi, gãy đầu dưới xương quay (xương cổ tay)... thì được gọi là LX thứ phát, nhất là khi có thêm các nguyên nhân: phụ nữ sau khi mãn kinh; bất động quá lâu ngày do bệnh tật; bị các bệnh nội tiết; suy thận mãn hoặc phải chạy thận nhân tạo; mắc các bệnh xương khớp mãn tính khác đặc biệt là viêm khớp dạng thấp và thoái hóa khớp; do sử dụng một số thuốc: chống động kinh, đái tháo đường và đặc biệt là các thuốc kháng viêm nhóm corticosteroid … Chính sự diễn biến thầm lặng mà người bệnh LX thường không được phát hiện sớm cho đến khi có biến chứng gãy xương.
BS. Nguyễn Quốc Trị - Trưởng khoa chi dưới, Bệnh viện (BV) Chấn Thương Chỉnh Hình TP.HCM cho biết, BN gãy cổ xương đùi đến điều trị tại BV này trong 5 năm (2005 - 2009) có 4.181 BN, trong đó có 85% BN xuất phát từ nguyên nhân là LX hoặc thiếu xương. Các phương pháp được áp dụng để điều trị hiện nay như: nắn, cố định bằng vít nẹn ép dưới màn tăng sáng (đối với điều trị gãy xương, gãy cổ xương đùi không di lệch, hoặc di lệch ít). Riêng BN lớn tuổi (> 65 tuổi) gãy di lệch nhiều, kèm LX, không có khả năng liền thì thay khớp nhân tạo và điều trị bằng thuốc chống LX.
Gãy cổ xương đùi thường rất khó lành xương, nhiều trường hợp lành xương nhưng sau đó vẫn bị hoại tử chỏm xương đùi phải thay khớp nhân tạo. Theo tư liệu nước ngoài, gãy tái phát do LX chiếm khoảng 25%. Các khó khăn khác gồm, BN gãy cổ xương đùi thường lớn tuổi khi gãy xương làm tăng nặng các bệnh nội khoa khác, chi phí điều trị cao trong khi đó điều kiện kinh tế của BN khó khăn nên không có khả năng tài chính để thay khớp nhân tạo và điều trị thuốc chống LX thường xuyên. Riêng với phương pháp điều trị thuốc uống dạng viên thường có thời gian kéo dài, lập lại hàng ngày hoặc hàng tuần tùy loại và tuyệt đối là không được quên uống thuốc dù chỉ 1 liều. Tuy nhiên, trên thực tế, người bệnh thường quên uống thuốc dẫn đến phải bỏ dở phác đồ điều trị. Thêm nữa, theo PGS. Lê Anh Thư, trên thị trường có nhiều loại thuốc điều trị LX dạng uống thuộc nhóm Bisphosphonate (BP - ức chế hủy xương) như: Fosamax, Actonel, Alentadronate, Risedronate,… Tuy nhiên, các loại này có nhược điểm trong việc buộc BN phải tuân thủ đúng tư thế hay phải ghi nhớ uống trước bữa ăn (bữa uống) đầu tiên trong ngày. Do đó, BN có thể quên và nhất là đối với BN bị gãy xương, đau lưng do xẹp lún đốt sống, bất động, lại càng bất lợi. Mặt khác, BP dạng uống gây kích ứng thực quản, viêm dạ dày. Điều này ảnh hưởng đến tính tuân thủ điều trị của BN, yếu tố quan trọng trong điều trị.
Từ những thất bại này mở ra một yêu cầu về phương pháp điều trị loãng xương và phòng ngừa gãy xương một cách hiệu quả. Và tin vui cho những BN LX, hiện đã có một loại thuốc ức chế hủy xương mới qua đường dùng là tiêm truyền tĩnh mạch zoledronic acid 5mg. Với liều dùng mỗi năm một lần trong ít nhất 15 phút, zoledronic acid 5mg có ưu điểm là sự thuận tiện cho bệnh nhân, tránh những tác dụng phụ trên đường tiêu hóa (đây là nhược điểm rất lớn của BP dạng uống) nên chắc chắn sẽ giúp BN tuân thủ việc điều trị tốt hơn.
NGUYỄN HUYỀN - MINH ANH

Những quan niệm sai lầm về bệnh loãng xương

“Lớn tuổi rồi, đương nhiên là xương phải yếu, ăn nhiều tôm cua hoặc uống sữa sẽ không bị loãng (LX)…” là những quan niệm thường thấy của mọi người khi nói về LX. Thậm chí, rất nhiều người không nghĩ rằng, LX là bệnh mà chỉ là những triệu chứng chung chung của tuổi già mà thôi.
Những sai lầm phổ biến
BS. Trần Thanh Mỹ, Giám đốc Bệnh viện Chấn Thương Chỉnh Hình TP.HCM cho biết, thực tế có rất nhiều quan niệm chưa đúng trong việc nhận thức về bệnh LX cũng như trong việc phòng ngừa, phát hiện và điều trị bệnh. Trong đó, có những quan niệm sai lầm nhiều đến mức phổ biến.
 Thường xuyên vận động, tập thể dục để duy trì hệ xương chắc khỏe.
Ảnh H. Hải
Sai lầm nghiêm trọng nhất, theo BS. Mỹ là việc cho rằng: “Tôi không thể bị LX được vì tôi còn trẻ” hay “LX là căn bệnh của phụ nữ”. Thậm chí khi người có tuổi bị đau nhức, hoặc té gãy xương thì chỉ chặc lưỡi: “Già rồi còn gì!”… Nhưng, chúng ta cần hiểu rằng, LX là một loại bệnh không chừa một ai và mọi lứa tuổi đều có thể mắc phải, nhất là đối tượng trung niên và người cao tuổi. Ở phụ nữ, canxi bị thất thoát nhiều hơn trong giai đoạn tiền mãn kinh và sau mãn kinh, khi lượng hócmôn sinh dục nữ estrogen giảm, làm cho canxi không được giữ lại ở xương nên xương trở nên xốp, giòn hơn.
Liên quan đến tuổi, xương có 2 quá trình xảy ra song song là tiêu hủy xương và tái tạo xương. Ở người trẻ tuổi, phần xương bị mất đi sẽ được bù đắp dễ dàng. Ở tuổi 30, bộ xương đạt độ vững chắc nhất. Ở người lớn tuổi, mỗi ngày lượng xương được tạo ra ít hơn so với lượng xương mất đi, do đó dẫn đến tình trạng LX. Đặc biệt BS. Mỹ cho rằng, đối với người cao tuổi, không mấy người biết những dấu hiệu đặc trưng của bệnh LX. Có rất nhiều nguyên nhân gây gãy xương ở người cao tuổi nhưng nguyên nhân do LX chiếm tỉ lệ rất cao. Trong tổng kết mới đây tại TP.HCM và BV. Chấn Thương Chỉnh Hình cho thấy, có 85 - 95% người cao tuổi gãy xương là do LX, chỉ cần té nhẹ là có thể gãy xương rồi. Phổ biến nhất là: xẹp cột sống, gãy cổ xương đùi và đầu dưới xương quay.
Sai lầm thứ hai là nhiều người vẫn chỉ dựa vào nguồn canxi có trong thực phẩm để kiểm soát khả năng mắc bệnh LX. Thực ra, ăn uống đủ chất với thực phẩm bổ sung canxi chỉ là điều kiện cần để phòng ngừa LX, điều kiện đủ phải là vận động, vì qua vận động, canxi mới có thể được đưa vào xương. Ngoài ra, mật độ xương còn phụ thuộc vào một số thành phần khác như: phốt-pho, hormone, vitamin D… Và việc “ăn” canxi cũng có nguy cơ mắc bệnh LX, nếu điều này không được thực hiện đều đặn hàng ngày.
Tại châu Á, trong đó có Việt Nam, chi phí điều trị LX tăng nhanh đến chóng mặt khi chi phí này tương đương với chi phí điều trị hai căn bệnh ung thư thường gặp ở phụ nữ là ung thư vú và cổ tử cung cộng lại. Ước tính tới năm 2050, thế giới có thể phải tốn tới 131, 5 tỉ USD để chữa trị những ca chấn thương liên quan đến LX.
Bệnh diễn biến âm thầm và hậu quả nặng nề
Trên thực tế, LX có thể xảy ra với bất kỳ ai, lứa tuổi nào. Nhưng nhìn chung, bệnh thường tập trung vào người lớn tuổi, đặc biệt là phụ nữ. LX tiến triển âm thầm không gây đau đớn khiến người bệnh không hay biết để chữa trị, do đó, hậu quả để lại là rất nặng nề. Biến chứng của nó nguy hiểm không kém nhồi máu cơ tim và đột quị với tỷ lệ tử vong 20% và đến 50% bị thương tật vĩnh viễn. Và phần đông những bệnh nhân chưa có dấu hiệu lại khá chủ quan trong việc điều trị. “Vấn đề này thực sự khiến các bác sĩ chúng tôi phải lo lắng vì nếu không điều trị, bệnh sẽ nặng dần và gãy xương có thể xảy ra”, BS. Mỹ cho biết.
Biến chứng nặng nhất của LX là gãy xương mà điều trị gãy xương do LX là rất khó khăn và phức tạp. Tùy theo vị trí xương, loại xương bị gãy mà điều trị hoặc thay thế. Đặc biệt, các xương lớn như cổ xương đùi bị gãy thì việc điều trị trở nên vô cùng khó, mất nhiều thời gian và chi phí rất tốn kém. Do đó, có thể nói biến chứng của LX không chỉ nằm ở xương mà tác động tới toàn bộ cơ thể, làm giảm chất lượng cuộc sống và tăng nguy cơ tử vong ở giai đoạn “hậu gãy xương”.
NGUYỄN TUÂN 

Báo động bệnh loãng xương

Theo tổ chức y tế thế giới, loãng xương (LX) là nguyên nhân đứng hàng thứ 2 gây nên bệnh tật, chỉ sau bệnh tim mạch. Tại Việt Nam, ước tính có 2,5 triệu người bị LX và có trên 150.000 trường hợp bị gãy xương do LX. Đến năm 2050, ước tính toàn thế giứoi sẽ có tới 6,3 triệu trường hiựp gãy cổ xương đùi do LX và châu Á chiếm 51%.
Những con số giật mình
LX là tình trạng mật độ canxi và khoáng chất trong xương suy giảm, làm cho xương trở nên giòn, xốp, dẫn đến nguy cơ gãy xương tăng cao. Hay LX có nghĩa “xương xốp” xuất hiện, khi lớp vỏ ngoài xương bị mỏng đi và giòn, lớp bè xương bị thương tổn. PGS.TS.BS. Lê Anh Thư - Trưởng khoa Nội Cơ Xương Khớp, BV. Chợ Rẫy, Chủ tịch Hội LX TP. HCM nói về bệnh này với cách nói hình ảnh: “LX diễn biến từ từ và thầm lặng. Người bị LX thường không biết mình bị bệnh. Người ta mệnh danh LX là kẻ cắp thầm lặng, từng chút một, đánh cắp đi các khoáng chất trong ngân hàng xương của cơ thể. Thông thường, manh mối đầu tiên dẫn tới LX là khi xuất hiện gãy xương. Gãy xương chính là “đột quỵ” của LX…”. Những người bị LX có nguy cơ gãy xương tăng gấp 3 - 5 lần so với người không bị LX. Một yếu tố nguy cơ quan trọng khác là tiền sử gãy xương. Một khi bệnh nhân đã bị gãy xương, nguy cơ gãy xương lần thứ hai gia tăng 2,5 lần so với nguy cơ trung bình trong dân số.
 Đo mật độ xương bằng máy DXA Hologic tại BV 115. Ảnh T.N
PGS.TS.BS. Nguyễn Thy Khuê - Chủ tịch Hội Nội tiết và Đái tháo đường Việt Nam - cho biết, hậu quả của LX thường rất nặng nề. Thông thường, bệnh chỉ được phát hiện từ một ca chấn thương nhiều khi rất nhẹ ở hệ xương: một cú ngã từ tư thế đứng, trượt chân trong phòng tắm, bước hụt cầu thang... làm gãy xương cổ tay, gãy xương cẳng chân dồn cột sống... Gãy xương khi bị những chấn thương nhẹ này là hậu quả cuối cùng của bệnh LX, thường gặp ở các vị trí chịu lực của cơ thể như cột sống thắt lưng và cổ xương đùi. Với người cao tuổi, thường có nhiều bệnh lý đi kèm như: tim mạch, huyết áp, đái tháo đường… Đặc biệt, với tình trạng LX nặng sẵn có (thiếu khoáng chất và protein của xương) thì việc liền xương thường rất khó và lâu. Đa số người bệnh phải nằm tại chỗ, thậm chí phải nằm điều trị dài ngày trong bệnh viện. Điều này không những làm tình trạng LX càng nặng lên mà còn kéo theo nhiều nguy cơ rất bất lợi cho sức khỏe như: bội nhiễm đường hô hấp, đường tiết niệu, loét mục ở các nơi tì, đè… Đây cũng là một nguyên nhân chính gây tàn phế và giảm tuổi thọ cho người mắc bệnh.
Theo thống kê ở các nước phát triển, gần 21% người có tuổi bị gãy cổ xương đùi sẽ tử vong trong vòng 6 tháng đầu vì các biến chứng do nằm lâu nêu trên. 20% người bệnh phải có người trợ giúp trong suốt cuộc đời còn lại. 30% người bị tàn phế, phải phụ thuộc hoàn toàn vào người khác. Chỉ có khoảng 30% có thể trở lại với cuộc sống bình thường nhưng lúc nào cũng bị nguy cơ tái gãy xương “rình rập”.
Theo số liệu của Tổ chức Chống loãng xương quốc tế (IOF), trên thế giới, cứ 3 phụ nữ thì có 1 người bị LX. Ở nam giới, tỉ lệ này là 1/5. Riêng tại Việt Nam, theo số liệu khảo sát bước đầu của Viện Dinh dưỡng, bệnh LX ảnh hưởng tới 1/3 phụ nữ và 1/8 đàn ông trên 50 tuổi. Trong khi đó, khẩu phần ăn của người Việt Nam hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu hạn chế LX. Lượng canxi đưa vào cơ thể trung bình là 524mg/người/ ngày, thấp hơn nhiều so với nhu cầu trung bình 800 - 1.000mg/người/ngày đối với người lớn.
Phòng ngừa LX là thuốc chữa tốt nhất
LX là một trong những bệnh mãn tính tiêu tốn nhiều tiền nhất. Chi phí điều trị LX tương đương với điều trị bệnh đái tháo đường, và cao hơn nhiều so với 2 căn bệnh ung thư ở phụ nữ là: ung thư vú và ung thư cổ tử cung. Đặc biệt, điều trị LX không biến chứng chiếm hơn 50% thu nhập bình thường của người Việt Nam, nên hầu như người Việt Nam không có khả năng theo đuổi quá trình điều trị lâu dài, hết năm này qua tháng nọ.
Các chuyên gia cho rằng: phòng chống LX là thuốc chữa tốt nhất. Duy trì hệ xương chắc khỏe chỉ cần 4 bước đơn giản: cung cấp đủ dưỡng chất cần thiết cho xương hàng ngày, nhất là canxi; thường xuyên vận động, tập thể dục; không hút thuốc, tránh sử dụng quá nhiều chất có cồn và caffein; đo mật độ xương định kỳ để kiểm tra sức khỏe của xương. Đồng thời, người bệnh cần phải đi kiểm tra xương ngay khi có các triệu chứng như: đau mỏi mơ hồ ở cột cống, đau dọc xương dài, đau mỏi cơ bắp, ớn lạnh, vọp bẻ các cơ, đau khi ngồi lâu hay thay đổi tư thế, đầy bụng chậm tiêu hay nặng ngực khó thở..
Nguyễn Na


Thực đơn phòng chống viêm khớp

Viêm khớp là bệnh có biểu hiện các khớp bị sưng, đau và hạn chế hoạt động. Bệnh do nhiều nguyên nhân gây ra, trong đó có nguyên nhân từ thức ăn: có những loại thức ăn làm cho bệnh tăng nặng và ngược lại cũng có nhiều loại thực phẩm giúp cho bệnh giảm nhẹ. Vì vậy khi biết dùng những thực phẩm hợp lý sẽ giúp bạn phòng và chữa bệnh viêm khớp hiệu quả.
Những dạng viêm khớp thường gặp
Dùng thực phẩm có tác dụng phòng tránh loãng xương
Canxi là một nguyên tố chính yếu cấu thành xương, mỗi ngày cơ thể cần khoảng 1.200mg canxi. Khi xương chắc khoẻ sẽ chống đỡ tốt với quá trình viêm mà giảm bệnh. Thức ăn chứa nhiều canxi bao gồm: sữa, các sản phẩm từ sữa, các loại rau xanh, các loại thủy hải sản như tôm, cua, các loại cá nhỏ để ăn nguyên xương cũng cung cấp một lượng canxi đáng kể. Đậu nành có hoạt chất genistein được xem như là hormon estrogen thực vật, góp phần quan trọng giúp cho xương chắc khỏe. Vận động và tắm nắng thường xuyên cũng giúp tăng tạo vitamin D giúp hấp thu và chuyển hóa canxi trong cơ thể.
- Bệnh gút hay còn gọi là thống phong, do ăn uống các loại thức ăn có nhiều chất đạm như tim, gan, bầu dục..., uống rượu mạnh, cà phê đặc, trà đậm làm hàm lượng acid uric tăng trong máu. Tổn thương hay gặp ở các khớp ngón chân cái, bàn chân, đầu gối... và thường ở người béo.
- Viêm khớp dạng thấp: là một bệnh tự miễn dịch, hay gặp ở người trẻ nhất là phụ nữ, do phản ứng dị ứng trong cơ thể, chủ yếu ảnh hưởng đến các khớp ở bàn tay, bàn chân, cổ tay và mắt cá chân.
- Viêm xương khớp: bệnh xuất hiện vào cuối tuổi trung niên, do tiến trình lão hóa của các khớp. Đối với người già trước tuổi thì quá trình viêm xương khớp cũng xảy ra sớm hơn.
- Viêm khớp nhiễm khuẩn: thường xuất hiện sau khi mắc phải một bệnh nhiễm khuẩn như: bệnh cúm, viêm họng do tụ cầu, liên cầu, nhiễm lậu cầu...
- Viêm đốt sống: bệnh gây viêm các khớp cột sống, gây chèn ép lên các dây thần kinh và phát sinh ra chứng đau ở vùng do dây thần kinh chi phối như:  đau dọc theo cánh tay, đau thần kinh liên sườn, đau ở vùng thắt lưng; đau dây thần kinh hông to (thần kinh toạ) lan xuống mông và phía sau cẳng chân...
- Thoái hóa cột sống, các đốt xương sống bị hư tổn, chèn ép các dây thần kinh nằm giữa các đốt sống và gây đau lưng. Nguyên nhân gây thoái hóa cột sống có thể là do viêm nhiễm, do tư thế lao động, thường xuyên mang vác các vật nặng. Thoái hóa bản thân xương cột sống do chứng loãng xương gây ra, gặp ở người cao tuổi.
Việc điều trị các bệnh viêm khớp phải phối hợp cả dùng thuốc và chế độ luyện tập, dinh dưỡng. Trong đó chế độ dinh dưỡng đóng vai trò quan trọng đối với công tác phòng và chữa bệnh.
 Các loại thực phẩm chứa nhiều omega-3.
Thức ăn nào giúp phòng chữa bệnh viêm khớp?
Dùng các thực phẩm giàu acid béo có ích:
- Thứ nhất là acid béo omega-3: chất này có tác dụng ngăn chặn phản ứng của hệ miễn dịch gây ra chứng viêm khớp, làm giảm hẳn các triệu chứng viêm đau khớp. Một vài nghiên cứu cho thấy: nếu bệnh nhân bị viêm khớp được sử dụng dầu cá với liều  từ 2-5g/ngày, kết quả là các khớp tổn thương bớt cứng và giảm đau rõ rệt. Thực phẩm chứa nhiều acid béo omega-3 là cá, đặc biệt là mỡ cá, các loại cá thu, cá ngừ, các trích, cá mòi, cá trống, cá hồi, tôm, cua, tảo, sinh vật phù du...
Nguồn cung cấp chất béo quý này là khá phong phú, nhưng trước khi muốn dùng bạn nên tuân theo lời khuyên của bác sĩ. Bởi bên cạnh những cái lợi do chất omega -3 mang lại, bạn cũng cần biết rằng khi dùng dầu cá liều cao sẽ bị ảnh hưởng đến quá trình đông máu của cơ thể và tương tác có hại với một số loại thuốc chữa bệnh khác.
Ngoài ra omega-3 còn rất hữu ích cho thai phụ, các bà mẹ đang cho con bú, bệnh nhân tim mạch, viêm gan mạn tính, hen phế quản, bệnh thận IgA, bệnh Crohn, người cao tuổi...
- Thứ hai là acid béo omega-6 GLA (acid gamma-linolenic): có tác dụng ức chế sự sản sinh ra chất gây viêm prostaglandin. Nghiên cứu cho thấy khi dùng với liều 1-3g/ngày cho kết quả khả quan đối với bệnh viêm khớp. Omega - 6 có nhiều trong thịt động vật và hầu hết các loại dầu thực vật.
 Người ta còn thấy rằng khi ăn nhiều omega-3 (thủy hải sản) thì omega-3 thay thế omega-6 trong cấu trúc màng của tất cả các tế bào (tế bào thần kinh, hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu, tế bào nội mạc mạch máu, tế bào gan...). Sự cạnh tranh giữa omega-3 và omega-6 đã làm giảm hẳn các chất trung gian gây viêm, các yếu tố làm khởi phát và gây rối loạn miễn dịch. Một chế độ ăn lý tưởng nhất cho sự phát triển và hoạt động của não, cho tế bào, chức năng miễn dịch và bảo vệ của cơ thể là tỷ lệ acid béo không no omega-3/omega-6 là từ 1-3/1.
Cung cấp đầy đủ các vitamin: 
Nhờ tác dụng chống ôxy hóa của các vitamin C, D, E và beta-caroten (tiền vitamin A) có thể giúp phòng tránh được một số dạng viêm khớp. Nhiều nghiên cứu cho thấy: vitamin C và D có khả năng làm giảm bệnh viêm xương khớp, chỉ với liều nhỏ dưới 150mg vitamin C (tương đương lượng sinh tố của 2 ly cam vắt) và 400 đơn vị quốc tế (IU) vitamin D/ngày có khả năng làm chậm hẳn sự tiến triển của bệnh viêm khớp gối. Người ta cũng đã chứng minh các thức ăn chứa nhiều vitamin E có tác dụng giảm đau chống viêm. Chất beta-caroten có nhiều trong cà rốt, cà chua, bí đỏ, rau xanh, các loại trái cây, rau củ có màu đỏ cũng có tác dụng giảm viêm khớp. Do đó bệnh nhân viêm khớp các dạng cần bảo đảm chế độ dinh dưỡng đầy đủ các vitamin nói trên, ăn nhiều rau tươi và trái cây chín sẽ có tác dụng phòng và chữa bệnh hiêu quả mà không độc hại.


BS. Ninh Thanh Tùng

Xơ xương do cường tuyến cận giáp

Cường chức năng tuyến cận giáp còn gọi là bệnh Recklinghausen, bệnh loạn dưỡng xương xơ thành túi, là bệnh do tuyến cận giáp tiết quá nhiều hormon vào máu. Bệnh gây ra những biến đổi ở xương và thận, thường gặp ở tuổi từ 20 - 50, nữ mắc nhiều hơn nam. 
 Hình ảnh xơ xương toàn thân trong bệnh cường tuyến cận giáp.
Làm thế nào phát hiện được bệnh? 
Tuy bệnh phát triển từ từ nhưng người ta vẫn có thể phát hiện ra bệnh nhờ các triệu chứng như sau: bệnh nhân thấy người mệt mỏi, một điểm rất lạ so với trước đây là người bệnh uống nhiều, đái nhiều, gầy nhanh và suy kiệt. Đau trong xương, nhất là đau xương bàn chân, gãy xương tự nhiên (gãy không do ngã hay chấn thương mạnh) nhiều lần, khi bị gãy xương lại không thấy đau, xương gãy rất lâu liền. Nhiều cái răng lung lay và một số cái bị rụng. Ăn mất ngon, buồn nôn hoặc nôn không liên quan với việc có ăn hay không ăn. Đi ngoài khi thì bị táo bón, lúc lại đi lỏng.
Khi bệnh nhân đến khám thường đã rất gầy, da xỉn màu đất, khô. Do bị thưa xương, trước hết ở thân đốt sống và biến dạng các chi, nên bệnh nhân thấp hẳn so với trước, đi lắc lư, hay vấp ngã. Mặt khác, do yếu cơ và những rối loạn khác phối hợp nên bệnh nhân đi lại rất khó khăn, chỉ thích nằm. 
Nhìn thấy lồng ngực bệnh nhân hình thùng, xương sườn dày, có vết của nhiều chỗ gãy cũ. Khi sờ có thể phát hiện được nhiều nang ở xương, có những chỗ xương gãy không liền, tạo nên khớp giả. Nếu có nang trong xương sọ thì khi dùng ngón tay gõ nhẹ sẽ có âm vang.
Bệnh gây ra nhiều tổn thương ở các cơ quan nội tạng như: Hệ tim mạch có nhịp tim nhanh, rối loạn nhịp tim, huyết áp thường cao; Hệ tiêu hóa có dấu hiệu ăn không ngon, khó tiêu, dịch dạ dày có độ axit cao, loét hành tá tràng, dạ dày, thực quản, ruột; Đối với hệ tiết niệu: triệu chứng sớm nhất là uống nhiều, đái nhiều, nước tiểu có tỷ trọng thấp hơn so với bình thường. Sỏi thận, đặc biệt sỏi cả hai thận và hay tái phát. Theo nghiên cứu của nhiều bác sĩ khác nhau: sỏi thận do cường chức năng tuyến cận giáp gặp từ 6 - 15% số bệnh nhân. Sỏi kết hợp với nhiễm khuẩn có thể gây viêm bàng quang, viêm bể thận, thận ứ nước, viêm đường tiết niệu; Hệ thần kinh: bệnh nhân thấy đau, liệt, rối loạn chức năng các cơ quan trong hố chậu do chèn ép vào các rễ thần kinh hoặc chèn vào ngang tủy sống. Nhiều trường hợp có rối loạn tâm thần như trầm uất hoài nghi, sợ hãi, giảm trí nhớ, có người lại thể hiện tình trạng hưng phấn nhưng ít gặp.
Một điểm lưu ý là cường chức năng tuyến cận giáp có thể tiến triển cấp tính, có những cơn cường cận giáp kịch phát với biểu hiện: sốt, buồn nôn, nôn liên tục, chán ăn, đau co thắt vùng bụng, táo bón, cơ rất yếu, hạ kali huyết, đái ít, truỵ mạch, hôn mê, có thể tử vong trong thời gian ngắn. Tuy nhiên mỗi bệnh nhân chỉ có một số triệu chứng trong số các triệu chứng nói trên vì bệnh gây tổn thương ở mỗi người mỗi khác.
Các xét nghiệm giúp chẩn đoán xác định
Xét nghiệm máu và nước tiểu có thể thấy thiếu máu, tăng canxi, giảm phospho máu, tăng phosphat kiềm. Khi bị suy thận nặng, tăng phosphat và giảm canxi huyết, tăng urê huyết. Nước tiểu có pH kiềm, tăng phosphat niệu, tăng canxi niệu, có thể có protein niệu. Nước tiểu tỷ trọng thấp, trong nước tiểu thường có trụ hình, trụ hạt. 
Chụp Xquang có hình ảnh thưa xương lan tràn. Ở các xương ống, xương sọ, xương sống, vỏ xương mỏng, nhiều nang xương, các nang xương thường khu trú gần với sụn đầu xương dài, hình ảnh tiêu xương dưới cốt mạc ở các ngón cái và ngón giữa xương bàn tay, xương chầy, khuỷu tay, xương đòn. Điện tim khoảng QT rút ngắn do tăng canxi huyết.
Phương pháp điều trị và những lưu ý
Phương pháp duy nhất để chữa bệnh là mổ cắt bỏ khối u ở tuyến cận giáp. Một trong những biến chứng có thể xảy ra sau phẫu thuật là cơn têtani, có thể xuất hiện ngay những ngày sau phẫu thuật hoặc sau một tuần, có khi sau vài tháng. Vì vậy sau mổ, bệnh nhân cần phải được theo dõi ngoại trú trong thời gian dài, định kỳ kiểm tra các triệu chứng lâm sàng, xét nghiệm, Xquang. Nếu không mổ cắt bỏ triệt để khối u, sớm hay muộn bệnh nhân cũng bị tàn phế. Còn phẫu thuật kịp thời, triệt để, sức khỏe sẽ phục hồi. Những trường hợp tổn thương nặng ở xương, thận, thời gian phục hồi sẽ kéo dài hơn.
Bệnh được bác sĩ Recklinghausen mô tả lần đầu tiên vào năm 1892, nên người ta lấy tên ông đặt tên cho bệnh để ghi nhớ công lao của ông. Đến năm 1924 A.V.Rucakov chứng minh được cường chức năng tuyến cận giáp là do khối u của tuyến gây ra. Cường chức năng tuyến giáp có thể do: adenoma; hoặc do cường sản tuyến cận giáp.
BS. Ninh Hồng

Bệnh khớp do nguyên nhân thần kinh


 Bệnh khớp do thần kinh ở giai đoạn muộn.
Bệnh khớp do nguyên nhân thần kinh (neuropathic arthropathy) là bệnh có những thay đổi về xương, khớp thứ phát do giảm hay mất cảm giác chi phối do rất nhiều nguyên nhân khác nhau gây nên. Điển hình trên phim chụp Xquang là tổn thương hủy hoại bề mặt sụn khớp, đặc xương dưới sụn, hẹp khe khớp, biến dạng khớp, trật khớp.
Nguyên nhân của bệnh khớp do nguyên nhân thần kinh có nhiều, hay gặp nhất là do bệnh đái tháo đường, giang mai biến chứng thần kinh (còn có tên là bệnh Tabes dorsalis) và bệnh rỗng tủy xương (Syringomyelia). Theo nhiều nghiên cứu trên thế giới, có tới 15% bệnh  nhân đái tháo đường, 10 - 20% bệnh nhân giang mai và 20 - 25% bệnh nhân rỗng tủy xương có biểu hiện bệnh khớp do nguyên nhân thần kinh. Ngoài ra triệu chứng bệnh còn gặp trong nhiều bệnh khác như sau chấn thương đặc biệt có chèn ép tủy sống hay tổn thương thần kinh ngoại biên, nhiều bệnh thần kinh di truyền khác, bệnh lý nhiễm khuẩn, do dùng corticoid, nghiện rượu, bệnh phong, hội chứng Raynaud, cường vỏ tuyến thượng thận, bệnh hệ thống như xơ cứng bì, viêm khớp dạng thấp, trẻ dị tật bẩm sinh do mẹ dùng thuốc Thalidomide trong thời kỳ mang thai, rối loạn cảm giác cận ung thư...
Dấu hiệu bệnh rất đa dạng
Triệu chứng bệnh đa dạng, phụ thuộc vào nguyên nhân, giai đoạn của bệnh.  Nhìn chung biểu hiện khớp bắt đầu xuất hiện muộn nhiều năm sau các biểu hiện thần kinh của bệnh chính, tuy nhiên lại tiến triển nhanh và hủy khớp chỉ trong vài tháng. Tùy nguyên nhân mà có các vị trí khớp hay gặp khác nhau: do bệnh đái tháo đường các triệu chứng chủ yếu ảnh hưởng tới khớp ở bàn chân và cổ chân; trong bệnh giang mai là khớp gối, háng và cổ chân; trong bệnh rỗng tủy xương ảnh hưởng tới cột sống và chi trên, đặc biệt ở khớp vai và khớp khuỷu. Thông thường biểu hiện ở một khớp (trừ khi ở khớp nhỏ bàn chân có thể ảnh hưởng tới vài khớp), không đối xứng. Triệu chứng khớp ban đầu thường nhẹ, tiến triển âm ỉ, tái phát từng đợt đặc biệt sau những chấn thương nhẹ. Đau khớp xuất hiện ở một phần ba số bệnh nhân nhưng thường là đau ít, nhất là khi so sánh với mức độ tổn thương khớp khá nhiều. Khớp sưng nhẹ, phù nề, sung huyết hoặc xuất huyết quanh khớp, sờ ấm hơn bình thường. Có thể tràn dịch khớp. Khớp có biểu hiện mất vững hoặc bán trật nhẹ. Ở giai đoạn muộn, đau có thể nặng hơn nếu hủy khớp tiến triển nhanh gây trật khớp hoặc có khối máu tụ, mảnh sụn hay xương vỡ nằm trong khớp. Khớp sưng, biến dạng nhiều do màng hoạt dịch khớp dày, do trật khớp hoặc gãy xương. Có thể gặp một số biến chứng kèm theo, đặc biệt hay gặp ở bệnh nhân đái tháo đường, như nhiễm khuẩn phần mềm quanh khớp, viêm khớp nhiễm khuẩn và cốt tủy viêm.
Cách phân biệt với các bệnh khớp khác
Chụp Xquang khớp bị tổn thương: Có thể phát hiện giai đoạn sớm hay muộn của bệnh. Trên Xquang cần chẩn đoán phân biệt bệnh với các bệnh thoái hóa khớp, hoại tử xương, bệnh khớp lắng đọng tinh thể canxi pyrophosphat, bệnh khớp do tiêm corticoid nội khớp, nhiễm khuẩn xương khớp...
Siêu âm khớp: Có thể phát hiện dịch trong khớp, dày màng hoạt dịch, hẹp khe khớp, định hướng cho hút dịch làm xét nghiệm để chẩn đoán những trường hợp viêm khớp nhiễm khuẩn. Chụp cắt lớp vi tính có thể giúp đánh giá tốt hơn tổn thương vỏ xương, mảnh xương chết hay khí ở trong xương.
Chụp cộng hưởng từ, đặc biệt có phối hợp thuốc cản quang, có ích trong phân biệt tổn thương tủy trong bệnh rỗng tủy với các viêm tủy nhiễm khuẩn, viêm đĩa đệm đốt sống nhiễm khuẩn cũng như giúp chẩn đoán một số biến chứng nhiễm khuẩn xương, khớp ở vị trí khác ngoài cột sống.
Chẩn đoán xác định bệnh dựa vào tiền sử bệnh nhân có bệnh lý tổn thương thần kinh (như đái tháo đường, giang mai, phong, bệnh rỗng tủy...) trước đó nhiều năm, xuất hiện đau, sưng khớp với tiến triển từ từ tăng dần, có sự bất cân xứng giữa mức độ đau với tổn thương khớp, xương. Cần kết hợp với chụp Xquang để khẳng định chẩn đoán.
Chẩn đoán phân biệt với các bệnh thoái hóa khớp, bệnh gút, bệnh giả gút (khớp viêm do lắng đọng tinh thể pyrophosphat), viêm khớp nhiễm khuẩn, viêm khớp do bệnh tự miễn (viêm khớp dạng thấp, viêm khớp vẩy nến...), viêm khớp phản ứng, hội chứng loạn dưỡng thần kinh giao cảm. Ví dụ trong giai đoạn sớm của bệnh khớp do nguyên nhân thần kinh, hình ảnh trên Xquang gần tương tự như trong thoái hóa khớp với tam chứng hẹp khe khớp, đặc xương dưới sụn, mọc gai xương ở rìa khớp. Tuy nhiên tiến triển của bệnh nhanh hơn thoái hóa khớp, không cân xứng giữa mức độ đau khớp với tổn thương trên Xquang: mức độ đau ít hơn trong khi tổn thương trên Xquang nặng hơn. Cần đặc biệt chú ý phân biệt bệnh với bệnh nhiễm khuẩn xương khớp hoặc phát hiện nhiễm khuẩn xương khớp với tư cách là biến chứng kèm theo để có hướng điều trị thích hợp.
 Tổn thương bàn chân ở người bệnh khớp do thần kinh trước và sau phẫu thuật.
Bệnh khớp do thần kinh được điều trị như thế nào?
Điều trị nguyên nhân, đặc biệt khi phát hiện sớm, điều trị tích cực bệnh chính có thể làm chậm quá trình tổn thương khớp.
Điều trị bảo tồn: những trường hợp phát hiện sớm cần bất động khớp (bằng giày thiết kế chuyên dụng, bó bột hay dụng cụ nẹp ngoài...), hạn chế tối đa trọng lực cơ thể cũng như các lực ngoại cảnh tác dụng lên khớp tổn thương để bảo vệ khớp khỏi các chấn thương tiếp diễn, qua đó làm chậm tiến trình bệnh. Dùng các thuốc giảm đau, giảm sưng nề khớp cũng như tăng mật độ xương tại chỗ. Phối hợp các biện pháp vật lý trị liệu phục hồi chức năng chống loét do tì đè.
Trường hợp khớp tổn thương biến dạng nặng hay gãy xương có thể cần phải phẫu thuật nẹp vít bên trong xương, lấy bỏ các mảnh dị vật - các canxi hóa trong khớp, làm cứng khớp hay phẫu thuật thay khớp toàn bộ.
Phòng và điều trị các biến chứng, đặc biệt biến chứng nhiễm khuẩn phần mềm quanh khớp, nhiễm khuẩn khớp, xương.
ThS. Bùi Hải Bình (Khoa cơ xương khớp - Bệnh viện Bạch Mai)

Đừng xem thường bệnh đau vai gáy

Bệnh đau vai gáy xuất hiện một cách thất thường, nhiều trường hợp bỗng dưng sau khi ngồi dậy, sau một đêm ngủ dậy thấy đau nhức khắp mình, đặc biệt là đau vùng vai, gáy nhiều khi đau lan xuống bả vai, làm tê mỏi các cánh tay, cẳng tay và ngón tay rất khó chịu. Triệu chứng đau nhức vai, gáy kéo dài trong nhiều ngày thậm chí trong nhiều tháng, cá biệt có trường hợp đau lan xuống hông, sườn hoặc thiếu máu cơ tim do chèn ép các mạch máu rất nguy hiểm.
Có rất nhiều nguyên nhân gây nên đau vai, gáy như thoái hoá, thoát vị đĩa đệm các đốt sống cổ với nhiều lý do khác nhau; do vẹo cổ bởi gối đầu cao, nằm sai tư thế hoặc vẹo cổ bẩm sinh; do dị tật; do viêm, chấn thương hoặc do các tác nhân cơ học như ngồi lâu, cúi lâu (đánh máy vi tính, công tác văn phòng, một số nhà khoa học, nhà văn, nhà thơ, bình luận, bàn luận văn học... chuyên đọc sách, tham khảo tài liệu với nhiều thời gian phải cúi xuống...) hoặc do mang vác nặng sai tư thế, nhất là công nhân đội than, cát từ tàu thuyền lên bến. Ngoài ra người ta cũng nhận thấy có một số yếu tố thuận lợi gây thiếu máu cục bộ vùng vai, gáy như thói quen ngồi lâu trước quạt, trước máy điều hoà nhiệt đô (máy lạnh), ra ngoài trời không đội mũ, nón để ánh nắng mặt trời chiếu thẳng vào vùng gáy...
 Tổn thương đốt sống cổ gây đau vai gáy
Phát hiện bệnh sớm nhất có thể
Biểu hiện rõ nét nhất của hiện tượng tổn thương đốt sống cổ hoặc bị chèn ép dây thần kinh hoặc bị thiếu máu cục bộ đều có thể gây nên triệu chứng đau vai gáy. Đau vai gáy thường xuất hiện vào lúc sáng sớm vừa ngủ dậy hoặc ngồi làm việc ở bàn giấy nhiều thời gian như đánh máy,cúi xuống  đọc văn bản hoặc sửa chữa văn bản, soạn giáo án (các thầy cô giáo) trong một thời gian dài trong một buổi  hoặc trong một ngày và có thể kéo dài nhiều ngày, nhiều tuần, nhiều tháng... Nhiều trường hợp ngoài đau vai gáy còn gây mỏi ở tay, tê tay, nặng tay cho nên khi làm các động tác dùng một hoặc hai tay nâng đỡ  hoặc khi lái xe (xe máy, xe ô tô) phải làm động tác đổi tay cầm lái vì tay kia bị mỏi, nặng rất khó chịu. Cũng có tác giả cho rằng có một tỷ lệ  nhất định nào đó do đau vai gáy  có thể gây nên liệt nửa người thậm chí gây nhồi máu cơ tim do mạch máu nuôi dưỡng tim bị chèn ép. Nói chung bệnh đau vai gáy là một loại bệnh gặp tỷ lệ khá cao, chủ yếu ở người trưởng thành hoặc gặp ở những đối tượng mang tính chất nghề nghiệp và nhất là người cao tuổi.
Một số trường hợp có thể tự chẩn đoán cho mình bị đau vai gáy với nguyên nhân gì, ví dụ nằm ngủ gối đầu cao sáng dậy bị vẹo cổ, đau vai, mỏi tay  hoặc do nằm sai tư thế kéo dài nhiều giờ như nằm co quắp,  gối đầu cao  hoặc tư thế nằm  nghiêng sang một bên. Đa số các trường hợp không rõ nguyên nhân hoặc có nhiều nguyên nhân làm lẫn lộn không biết nguyên nhân nào là nguyên nhân chính gây nên đau vai, gáy thì cần đi khám bệnh. Tại cơ sở y tế có điều kiện, ngoài thăm khám  người ta có thể hỏi bệnh, chụp Xquang đốt sống cổ, chụp cộng hưởng từ (MRI), chụp cắt lớp vi tính (CT) và cũng có thể đo điện não đồ, đo mật độ xương, xét nghiệm sinh hoá máu nếu có bệnh về bệnh liên quan đến tim mạch...
Phòng đau vai gáy như thế nào?
Các nhà chuyên môn khuyên nhiều người nên bỏ dần thói quen ngồi trước máy điều hoà nhiệt độ (máy lạnh) nhiều giờ; khi ra khỏi nhà cần đội mũ, nón để che nắng mỗi khi có ánh nắng mặt trời. Nên bỏ thuốc lá, thuốc lào ở những người nghiện thuốc lá, thuốc lào vì chất độc trong thuốc lào, thuốc lá cũng đóng góp đáng kể trong bệnh gây thoái hoá khớp. Muốn không để xảy ra bệnh đau vai gáy nên tập thể dục nhẹ nhàng, đều đặn, đúng bài, sinh hoạt điều độ và luôn coi sức khoẻ là vốn quý giá nhất.
Cách “đối phó” với chứng đau vai gáy
Cần khắc phục nguyên nhân gây ra đau vai gáy mà chính bản thân người bệnh biết được lý do gây ra đau vai gáy là điều quan trọng, ví dụ như không đọc sách, văn bản, soạn giáo án, giáo trình, đọc truyện kéo dài nhiều thời gian trong một buổi, trong một ngày; không nằm kê đầu bằng gối cao cả tư thế nằm ngửa, cả tư thế nằm nghiêng. Một số nghề nghiệp không thể không ngồi lâu trong một thời gian dài như đánh máy, lái xe đường dài, công tác văn phòng thì cố gắng nghỉ giải lao giữa giờ làm việc và tập cúi xuống, đứng lên hoặc quay đầu, xoay cổ nhẹ nhàng trong vòng 10-15 phút sau vài giờ đã làm việc liên tục. Tuy nhiên trong những trường hợp đã được bác sĩ khám và xác định thoái hoá đốt sống cổ gây xơ cứng đốt sống cổ, thoát vị đĩa đệm đốt sống cổ thì không nên xoay cổ, vặn cổ hoặc xoay lưng mạnh, nếu làm như vậy thì sẽ "lợi bất cập hại". Xoa bóp, bấm huyệt đúng cách, đúng chuyên môn và thực hiện đều đặn hàng ngày cũng có thể đem lại hiệu quả nhất định kết hợp với điều trị thuốc. Điều trị thuốc gì cần có ý kiến của bác sĩ khám bệnh cho mình, không nên tự mua thuốc điều trị và cũng không nên điều trị ở những cơ sở không đáng tin cậy. Hiện nay khoa học ngày càng phát triển cho nên về Tây y có những loại thuốc dùng điều trị về bệnh khớp nói chung và bệnh thoái hoá khớp nói riêng khá hiệu nghiệm. Thuốc vừa điều trị giảm đau vừa điều trị phục hồi dần các tổn thương của khớp mà ít ảnh hưởng hoặc không ảnh hưởng xấu đến đường tiêu hoá của người bệnh.
PGS.TS.BS. Bùi Khắc Hậu

“Bóc vỏ xương” - Cứu cánh cho nhiều người bệnh

Viện Chấn thương chỉnh hình - Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 đang ứng dụng kỹ thuật bóc vỏ xương điều trị cho những trường hợp gẫy thân xương dài, xương không liền tạo thành các khớp giả gây tàn phế. Với những hiệu quả mang lại, phương pháp này đang là cứu cánh cho nhiều bệnh nhân tránh cho họ khỏi cuộc phẫu thuật phải lấy xương mào chậu để ghép.
Nhiều trường hợp tàn tật sau gãy xương
Sau một năm bị tai nạn gãy xương hở, mặc dù đã được bó bột và khâu vết thương, song ông Trần Mạnh Huy, 45 tuổi (Văn Quán - Hà Nội) vẫn đau đớn không đi lại được. Ổ gãy ở cẳng chân vẫn chưa liền và cong vẹo. Tại Bệnh viện Quân y 108, bệnh nhân được chẩn đoán bị khớp giả thân xương dài. Ông Huy đã được thực hiện phẫu thuật bóc vỏ xương (đây chính là ghép xương tại chỗ) kết hợp với kết xương bằng đinh nội tủy có chốt. Sau 4 tháng, xương liền và bệnh nhân đi đứng bình thường.
 Chân bệnh nhân sau khi được phẫu thuật bóc vỏ xương.

TS. Nguyễn Lâm Bình, người trực tiếp điều trị cho bệnh nhân Huy cho biết, trường hợp như của ông Huy không phải là hiếm và được gọi là khớp giả thân xương dài. Bệnh chiếm tỷ lệ từ 2 - 5% ở các trường hợp sau gãy thân các xương dài ở cánh tay, cẳng tay, đùi, cẳng chân. Bệnh nhân thường đã được điều trị mổ kết xương hay bó bột, bó thuốc nam... nhưng sau 6 tháng vẫn không đi đứng hoặc không vận động cánh tay, cẳng tay được. Chụp phim Xquang kiểm tra thấy ổ gãy xương chưa liền, đó chính là khớp giả. Những trường hợp này cần phải được can thiệp phẫu thuật kết xương để cố định vững ổ gãy (thường kèm theo tháo phương tiện kết xương cũ), đồng thời kết hợp với làm mới ổ gãy, ghép xương... mới có thể liền xương. Nếu không điều trị bệnh nhân sẽ tàn phế.
TS. Nguyễn Văn Tín, Phó Viện trưởng Viện Chấn thương chỉnh hình cho hay, hiện có rất nhiều phương pháp điều trị khớp giả không nhiễm khuẩn ở các xương dài, mỗi phương pháp đều có ưu nhược điểm nhất định. Ở hầu hết các bệnh viện trong nước, phương pháp điều trị phổ biến nhất là phẫu thuật kết xương kết hợp với ghép xương mào chậu tự thân. Đây là một phương pháp điều trị có tính kinh điển, đạt tỷ lệ liền xương từ 85 - 95%. Tuy nhiên, bệnh nhân phải chịu thêm một thì mổ lấy xương ghép ở xương mào chậu. Ghép xương đồng loại hay ghép chất liệu thay thế xương ghép ít được ứng dụng do những nhược điểm về tỷ lệ thành công thấp, giá thành cao hoặc chất liệu không sẵn có... Vì vậy, bóc vỏ xương là một phương pháp rất hiệu quả đối với bệnh nhân.
Chi phí thấp nhưng hiệu quả cao
Theo TS. Bình, bóc vỏ xương là một phương pháp điều trị khớp giả thân xương dài đạt tỷ lệ liền xương cao, kỹ thuật không phức tạp, trang bị đơn giản mà lại giúp cho bệnh nhân giảm được một thì mổ lấy xương mào chậu như trong kỹ thuật ghép xương mào chậu tự thân. Khi mổ vào khớp giả, bác sĩ đục 1 lớp vỏ xương quanh chu vi thân xương, có độ dày từ 1 – 2mm, trên một đoạn dài từ 8 - 15cm bắc qua khe khớp giả. Lớp vỏ xương vẫn dính cốt mạc, cơ và phần mềm quanh xương. Các mảnh vỏ xương này sẽ là những mảnh xương ghép có mạch máu nuôi dưỡng đến từ cốt mạc cơ, tạo ra những mảnh xương ghép tại chỗ, có nguồn mạch máu nuôi dưỡng bao ôm quanh ổ khớp giả. Chính vì vậy, khả năng liền xương là rất cao, đạt tỷ lệ 95 - 98% trên hàng nghìn ca. Đặc biệt, không gặp những biến chứng đáng kể nào từ kỹ thuật bóc vỏ xương, kể cả tỷ lệ nhiễm khuẩn vết mổ trên những khớp giả có tiền sử nhiễm khuẩn. Đồng thời trong phẫu thuật bóc vỏ xương, bệnh nhân sẽ được kết xương vững chắc để đảm bảo cố định tốt ổ khớp giả.
Tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 đã nghiên cứu và ứng dụng phương pháp bóc vỏ xương điều trị khớp giả thân xương dài (chủ yếu ở đùi và cẳng chân, một số ít ở cánh tay và cẳng tay) đạt tỷ lệ liền xương 96,7%, kết quả liền xương vững với thời gian trung bình là 6,3 tháng đối với xương đùi và 4,7 tháng đối với xương chày. Kỹ thuật bóc vỏ xương được thực hiện thuận lợi, an toàn cho cả những trường hợp khớp giả có phần mềm sẹo xấu dính xương mà cần bộc lộ đầu khớp giả. Bệnh nhân có thể tập vận động sớm sau mổ. Đối với khớp giả ở đùi, cẳng chân thường được kết hợp với kết xương vững chắc bằng đinh nội tủy có chốt. Đa số bệnh nhân được đi, đứng không cần chống nạng từ sau khi cắt chỉ liền sẹo vết mổ.
Hà Anh

Tự giúp mình giảm nguy cơ thoái hóa khớp

Nhiều người lầm tưởng rằng những bước chân nặng nề khó nhọc, sự mỏi nhức của các khớp chỉ diễn ra ở tuổi già nhưng thực tế quá trình thoái hóa khớp diễn ra ngay cả khi chúng ta đang còn trẻ. Mặc dù các yếu tố di truyền và lão hoá không thể điều chỉnh được nhưng chúng ta vẫn có thể giảm nguy cơ thoái hóa khớp nếu có tác động tích cực vào các yếu tố cơ học, dinh dưỡng, lối sống...
Chất lượng cuộc sống bị giảm sút khi khớp bị đau
Thoái hoá khớp là hậu quả của mất cân bằng giữa quá trình tổng hợp và thoái giáng tổ chức sụn khớp: quá trình thoái giáng sụn tăng lên trong khi quá trình tổng hợp sụn giảm sút; làm thay đổi hình thái, sinh hoá, phân tử và cơ sinh học của tế bào và chất cơ bản của sụn dẫn đến hiện tượng sụn khớp bị nhuyễn hoá, nứt, loét và mỏng dần, xơ hoá xương dưới sụn, tạo gai xương và hốc xương dưới sụn. Bệnh tiến triển thầm lặng, không có biểu hiện gì cho đến một mức độ tổn thương nhất định của sụn khớp mới gây nên các triệu chứng trên lâm sàng như đau khớp, cứng khớp, tràn dịch ổ khớp, biến dạng khớp, dính khớp, teo cơ quanh khớp, gây khó khăn trong lao động, sinh hoạt, giảm chất lượng cuộc sống, thậm chí là tàn tật. Các khớp hay bị thoái hoá là những khớp phải chịu sức nặng của cơ thể (các khớp tải trọng) như khớp gối, khớp háng, khớp cột sống...
 Diễn viên múa balê dễ bị chấn thương khớp.
Truy tìm nguyên nhân
Nguyên nhân thực sự của bệnh thoái hóa khớp vẫn chưa được hiểu biết đầy đủ. Tuy nguyên nhân của bệnh chưa biết rõ nhưng người ta đã biết được một số yếu tố nguy cơ cơ bản gây nên bệnh thoái hóa khớp, đó là:
- Yếu tố di truyền: thoái hoá khớp cũng như nhiều bệnh khác chịu chi phối rất lớn của di truyền, có những chủng tộc người có tỷ lệ thoái hoá khớp cao hơn các chủng tộc khác.
- Lão hoá: Các tế bào sụn với thời gian lâu dần sẽ giảm khả năng tổng hợp các chất tạo nên sợi colagen và chất cơ bản của sụn làm cho chất lượng của sụn, tính đàn hồi, tính chịu lực bị giảm sút. Nói cách khác thoái hóa khớp là hậu quả của quá trình lão hoá của sụn khớp, do đó tần số mắc bệnh tăng dần theo tuổi. Với tuổi thọ trung bình ngày càng cao đồng nghĩa với số bệnh nhân bị bệnh thoái khớp ngày càng nhiều.
- Yếu tố cơ học: các vi chấn thương tích tụ lại nhiều lần (hiện tượng quá tải) là yếu tố quan trọng thúc đẩy quá trình thoái hoá tăng nhanh. Hiện tượng quá tải hay gặp trong trường hợp tư thế làm việc không hợp lý; tăng cân quá mức do béo phì, do nghề nghiệp đặc biệt là các chấn thương thể thao như khớp bàn tay, khớp vai của các võ sĩ quyền anh; khớp khuỷu tay của công nhân vận hành búa máy, khoan cắt bê tông;  khớp gối của vận động viên bóng rổ hoặc cử tạ, khớp cổ chân của diễn viên balê, vận động viên bóng đá; đĩa đệm cột sống của vận động viên cử tạ; thợ mỏ than, người đội đá, cát, đất...
- Yếu tố dinh dưỡng: thừa cân, béo phì gây quá tải nên sụn khớp, ăn uống thiếu chất dinh dưỡng, thiếu chất khoáng (mangan, zinc), một số vitamin làm ảnh hưởng đến chất lượng của sụn khớp.
 - Các dị dạng bẩm sinh và rối loạn phát triển như loạn sản sụn; trật khớp háng bẩm sinh, biến dạng kiểu chân chữ X, chữ O; gù vẹo cột sống gây ra do những rối loạn làm thay đổi đặc tính của sụn và làm hư hại bề mặt khớp.
 Thoái hóa khớp.
Có thể trì hoãn quá trình thoái hóa khớp?
Vì chưa biết rõ nguyên nhân của bệnh và bệnh diễn tiến âm thầm không triệu chứng một thời gian dài trước khi bộc lộ đầy đủ trên lâm sàng nên phòng bệnh là tác động vào các yếu tố nguy cơ đã phân tích ở trên càng sớm càng tốt. Mục đích là làm chậm quá trình hủy hoại khớp, nhất là ngăn sự thoái hóa sụn khớp, duy trì khả năng vận động, cải thiện chất lượng cuộc sống.
Trong các yếu tố cần điều chỉnh thì yếu tố di truyền và yếu tố lão hoá là những yếu tố mà chúng ta không thể điều chỉnh được. Ngược lại các yếu tố còn lại (yếu tố cơ học, dinh dưỡng, lối sống) chúng ta có thể điều chỉnh được bằng các biện pháp sau:
Tránh cho khớp bị quá tải: tư thế làm việc hợp lý, không nên làm việc ở một tư thế kéo dài mà nên thay đổi tư thế thường xuyên, nên kết hợp những khoảng nghỉ ngắn 5-10 phút trong khi làm việc, giữ cân nặng ở mức hợp lý, giảm cân nếu béo phì. Tập thể dục thường xuyên và vừa sức, như bơi lội, đạp xe đạp, đi bộ khoảng 30- 60 phút/ngày, tập dưỡng sinh, tập các động tác tập tăng cường sức mạnh của các cơ quanh khớp, làm giảm lực tác động trên bề mặt sụn.
Phát hiện và điều trị kịp thời các chấn thương do thể thao, do nghề nghiệp, sau đó là sử dụng các biện pháp lý liệu pháp, phục hồi chức năng để đưa khớp trở về trạng thái sinh lý bình thường, tránh diễn biến xấu dẫn đến thoái hoá khớp. Với những người làm những nghề có nguy cơ thoái hoá khớp cao thì tìm kiếm các biện pháp thích nghi với điều kiện làm việc, với nguyên tắc là tránh cho khớp ít bị quá tải nhất có thể.
 Dinh dưỡng hợp lý: ăn uống đầy đủ và cân bằng các chất dinh dưỡng nhất là các chất khoáng, các vitamin như rau quả tươi, giàu các chất chống ôxy hoá.
Phát hiện và sửa chữa các dị dạng bẩm sinh, tư thế xấu, lệch trục khớp như chỉnh lại trục khớp, gọt giũa xương chày trong lệch trục khớp gối, sửa chữa lại các thiểu sản khớp háng bẩm sinh.
 Dự phòng bằng sử dụng thuốc có tác dụng trên cấu trúc sụn khớp. Hiện các thuốc này mới được khuyến cáo dùng để điều trị bệnh thoái hoá khớp, chưa có các nguyên cứu về chỉ định dự phòng thoái hoá khớp (ở giai đoạn tiền lâm sàng: khi mà các triệu chứng thoái hoá khớp chưa biểu hiện trên lâm sàng).
TS.BS. Đào Hùng Hạnh