Thứ Năm, 27 tháng 11, 2014

“Chuột rút” nên dùng thuốc gì?

Có nhiều nguyên nhân gây ra chuột rút (vọp bẻ) và cách khắc phục theo từng nguyên nhân:

Do thiếu calcium, magnesium và kalium: Nguyên nhân này thường gặp ở người có thai và cho con bú hay ở trẻ trưởng thành (do trong khẩu phần ăn không đủ chất). Với nguyên nhân này chỉ cần bổ sung các chất trên là được. Lưu ý, nên bổ sung từng thứ một. Ví dụ, nếu thiếu cả calcium và magnesium thì bổ sung magnesium trước rồi bổ sung calcium sau vì calcium làm giảm sự hấp thụ mangesium. Ngoài ra, chuột rút còn do ứ đọng acid lactic (vì vận động quá mức, vì dùng thiếu nước hay do dùng thuốc làm cho chuyển hóa bị rối loạn).
Do sự lão hóa hệ thần kinh, hệ cơ hay hệ mạch: Nguyên nhân này thường xảy ra với những người lớn tuổi. Ở người lớn tuổi, nguyên nhân này lại đi kèm với nguyên nhân trên (vì sự hấp thu các chất trên giảm sút). Cách khắc phục là vừa bổ sung calcium, magnesium, kailum vừa bổ sung các chất có lợi cho hệ thần kinh cơ và hệ tuần hoàn. Thường dùng nhất là vitamin B1, uống, liều cao hay vitamin B6 (phối hợp sẵn trong viên magnesium B6).
Do hoạt động thái quá của hệ thần kinh cơ bắp:
Ví dụ như tập luyện căng thẳng mãi trong một tư thế, trong một điều kiện bắt buộc khác với bình thường (như lạnh đột ngột). Điều này hay xảy ra với vận động viên và cách phòng chữa chuột rút ở họ cũng có khác: Cần có thời gian làm duỗi cơ 5-10 phút trước lúc khởi động, mang trang bị đúng (dùng loại giày thích hợp), dùng đủ nước (thiếu nước sẽ gây tích lũy acid lactic). Khi bơi lội hay bị chuột rút ở ngón chân (nên khởi động cho ấm, vào nước từ từ bằng vận động chậm). Khi bị vọp bẻ thì ngừng ngay hoạt động, nếu được có thể kéo duỗi cơ từ 15-20 giây cho đến khi cơ giãn hoàn toàn. 
Sau khi bị chuột rút nên nghỉ luyện tập khoảng 1 giờ để cơ bắp và hệ thần kinh trung ương đủ hồi phục. Xoa dầu, làm nóng vùng chuột rút trong vài phút để làm giãn cơ. Đương nhiên, vận động viên cũng cần ăn hay dùng thuốc bổ sung đủ calcium, magnesium, vitamin như các trường hợp nêu trên và nhu cầu vận động viên bao giờ cũng cao hơn.
Một thuốc nữa thường dùng trong chuột rút là thuốc làm bền và giãn mạch. Chúng có tác dụng làm cho máu lưu thông, cung cấp đủ các chất cho hệ cơ và thần kinh như cyclo-3 fort (gồm cao ruscus alculeatus + hesperdin methyl chacol và vitamin C) hay các loại khác như benzequerein. Thuốc khó dùng, cần có chỉ dẫn của thầy thuốc.
Người bị chuột rút cũng không nên lạm dụng chất kích thích như cà phê.
Y học cổ truyền cho chuột rút là do hàn (lạnh thì co), thuộc phong (gây co cứng), do ẩm (khí huyết ứ trệ). Thường dùng bài thuốc thư cân hoạt huyết bao gồm tới 12 vị ( phòng phong, kinh giới, độc hoạt, đương quy, tục đoạn, thanh bì, hồng hoa, chỉ xác, ngũ gia bì, đỗ trọng, ngưu tất) gia giảm từng vị từ 6 - 12g. Sắc uống mỗi đợt 5 ngày. Xét kỹ thì các thuốc trên có cơ chế phòng ngừa chuột rút giống như tân dược.  
Bổ sung thức ăn hay dùng thuốc với liều đầy đủ, duy trì cho đến lúc tình trạng chuột rút không còn hoặc rất hiếm xảy ra.
 

Theo DS Hồ Hạnh - Sức khỏe & Đời sống

Collagen - “Thuốc” cho viêm khớp?

Gầy đây, nhiều liệu pháp thay thế bằng cách bổ sung dưỡng chất để điều trị viêm khớp đã trở nên phổ biến nhờ có tác dụng phụ ít hơn, ít tốn kém và hiệu quả.

Ảnh minh họa - Nguồn: Inmagine
  
Collagen có ý nghĩa quan trọng đối với sức khỏe của khớp, mặc dù nhiều người có xu hướng nghĩ về nó như một phương thức điều trị chống nếp nhăn da, giúp da mịn màng, sáng đẹp, săn chắc. Một số loại viêm khớp có thể làm cho các sụn ở khớp mất tính đàn hồi và dần dần mất đi tại các khớp vận động nhiều nhất như khớp gối, mắt cá chân và cổ tay. 
 
Không có sự hiện diện của phần giảm shock tự nhiên này, gân và dây chằng phải căng ra để bù đắp vào, gây đau đớn. Một số thuốc điều trị bệnh viêm khớp thường được sử dụng chỉ để giảm đau, điều này thật sự nguy hiểm. 
Các sụn ở khớp được tạo ra bằng bốn chất cơ bản là proteoglycans, chondrocytes, nước và collagen. Collagen không chỉ là thành phần quan trọng tạo nên hình dạng và sức mạnh của sụn, nó còn có thể được tìm thấy trong các dây chằng xung quanh và tạo ra bộ khung để các thành phần khác của sụn bám vào.  Dùng collagen cho viêm khớp có tác dụng tốt không phải đơn giản chỉ để giảm đau mà còn giúp đỡ xây dựng lại các sụn bị mất.
Có hai loại chính của collagen được sử dụng cho viêm khớp, loại collagen I và II. Collagen I  phục hồi sụn, do đó làm giảm đau và cứng khớp gây ra bởi sự thiếu hụt các mô quan trọng này và cải thiện tính di động của các khớp.  Collagen II là loại protein bị mất đi trong quá trình sưng cứng và mất sụn, do đó, nhiều người cho rằng, quan trọng là nên bổ sung loại collagen này cho bệnh nhân. Loại collagen II đã được kiểm tra kỹ lưỡng trong một nghiên cứu lớn tại Trường Y Harvard. Người ta sử dụng sụn từ gà bổ sung cho một nhóm người bị viêm khớp, nhiều người đã được ghi nhận cải thiện đáng kể các triệu chứng.
Những nghiên cứu mới và chứng cứ về các kết quả thu nhận được cho thấy collagen điều trị viêm khớp là một bước đi đúng, rất quan trọng với hy vọng chữa khỏi bệnh viêm khớp.

TheoBS Đỗ Trung Hiếu - Phụ nữ TPHCM

Giảm đau khớp bằng bắp cải xanh

Y học dân gian phương Tây có một bài thuốc sử dụng lá bắp cải xanh để trị đau khớp rất công hiệu.

Rất nhiều người phải đương đầu với những cơn đau khớp do thấp khớp, viêm khớp, bị chấn thương hoặc hoạt động gắng sức... Các lọai thuốc giảm đau tuy có công hiệu tức thời nhưng gây nhiều tác dụng phụ có hại cho cơ thể


Lá bắp cải chứa nhiều vitamin C, vitamin K, các hóa chất thực vật (phytochemicals) và đặc biệt rất giàu glutamine là một chất kháng viêm thiên nhiên. Chất  glutamine có rất nhiều trong những lá sậm màu ở phía ngoài nhất của bắp cải. Thường khi nấu ăn, do không biết nên người ta hay bỏ đi những lá phía ngoài này vì nghĩ chúng già.
 
Hãy đặt những lá sậm màu ở bên ngoài của bắp cải trên mặt phẳng (bàn, thớt), dùng dao cắt bỏ phần cọng cứng và dày của lá. Sau đó, dùng chai rượu hình trụ cán qua cán lại cho đến khi lá bị dập và tiết ra một số dịch. Đem những lá đã cán giập này cho vào lò vi ba khoảng 15 giây (nếu không có lò vi ba, có thể đem lá đi hấp sao cho lá đủ ấm).
 
Dùng lá bắp cải ấm này quấn chung quanh vùng khớp bị đau và dùng dây buộc lại (vừa đủ để giữ lá, không cột quá chặt), để cố định trong vòng một giờ. Sau đó, nếu có thời gian, thay một lá mới theo cách làm như trên. Tốt nhất là làm trước khi đi ngủ và để nguyên đêm cho tới sáng rồi thay bằng lá bắp cải mới.

Cách làm này vừa công dụng, rẻ tiền mà chắc chắn tránh được các tác dụng phụ của những thuốc giảm đau.
 
Theo DS Nguyễn Bá Huy Cường - Người lao động

Hội chứng thắt lưng chậu là gì?

Đặc trưng của hội chứng này là đau ở phần thấp và thường là một bên của cột sống thắt lưng, lan xuống phần ngoài đùi...

Hội chứng thắt lưng chậu có những tên gọi khác nhau như hội chứng đau dây thần kinh hông giả, đau chậu - đùi - cẳng chân - giả dây thần kinh hông to. Bệnh thường gặp ở người làm việc quá sức, đi khập khễnh, phụ nữ mang thai, phụ nữ trên 50 tuổi...  Biểu hiện đặc trưng là đau lưng.


Căn nguyên của hội chứng thắt lưng chậu

Qua nhiều kết quả nghiên cứu, phân tích trên lâm sàng, xét nghiệm và Xquang cũng như phẫu thuật, nhiều tác giả đã đưa ra giả thuyết nguyên nhân bệnh sinh của hội chứng thắt lưng chậu là do vai trò của rối loạn tư thế và lực kéo phát sinh từ dây chằng thắt lưng - chậu và viêm dây chằng là nguồn gốc của những kiểu đau lan. Sau đó, với yếu tố thời gian đã biến viêm cốt mạc dây chằng thắt lưng - chậu thành trạng thái xơ hóa ngấm vôi.

Những yếu tố thuận lợi phát sinh bệnh này là gù vẹo cột sống, quá ưỡn thắt lưng, đi khập khễnh, hai chi dưới không cân bằng, các di chứng của tai nạn, làm việc quá sức, mang thai hoặc quá trình thoái hóa đĩa đệm cột sống của người phụ nữ trên 50 tuổi, hoàn cảnh nghề nghiệp, đời sống liên quan...

 Phẫu thuật cắt dây chằng thắt lưng - chậu nếu tăng cảm giác đau tái phát dai dẳng

Để chẩn đoán chính xác bệnh?

Vùng thắt lưng chậu là khu vực tập trung, khu trú của nhiều bệnh khác nhau, dễ nhầm lẫn trong chẩn đoán. Vì vậy, thầy thuốc nên hỏi tỉ  mỉ, cẩn thận để bệnh nhân chỉ vị trí đau chính xác. Đặc trưng của hội chứng này là đau ở phần thấp và thường là một bên của cột sống thắt lưng, lan xuống phần ngoài đùi, đôi khi lan xuống cẳng chân và vùng bẹn.

Thăm khám:

- Sờ nắn vào 1/3 sau của mào chậu, người bệnh thấy đau. Dùng ngón tay trỏ và ngón tay giữa quặp móc tỳ mạnh vào vùng vồng lên của cốt mạc dây chằng thắt lưng - chậu, nếu gây đau thì đó là triệu chứng đặc trưng của hội chứng thắt lưng - chậu. Muốn phát hiện được triệu chứng này phải khám ở ba tư thế: nằm sấp gù lưng, nằm ngửa co gối dạng chân và nằm nghiêng để tạo tình trạng mềm giãn cơ dây chằng sau tới mức tối đa.

- Sờ nắn kết hợp với khám đoạn vận động chậu hông - cột sống chuyển động theo tư thế đứng, quan sát từ phía lưng, động tác gấp thân sẽ kéo theo sự căng giãn dây chằng thắt lưng - chậu. Từ tư thế này xoay và nghiêng bên kết hợp với gấp nhằm tác động vào dây chằng thắt lưng chậu một lực kéo mạnh gây đau ở phía bên có viêm cốt mạc - dây chằng thắt lưng - chậu. Sau đó phát hiện vùng đau ở phía ngoài chi dưới bằng cách ấn trên đường đi của cân đùi và cơ cẳng chân trước, người bệnh thấy đau trội lên.

Xquang: Có thể thấy những hình ảnh tổn thương khi chụp vùng thắt lưng - chậu: Vôi hóa ở chỗ bám cốt mạc (gai xương) rất hay gặp (92%) nhưng có khi vôi hóa ở chính dây chằng thắt lưng chậu...

Hội chứng thắt lưng chậu có những thể bệnh nào?

Trên thực tế lâm sàng, căn cứ vào vị trí và tính chất đau để phân chia các thể bệnh. Tuy nhiên có một số thể không có đầy đủ những triệu chứng của viêm cốt mạc - dây chằng thắt lưng - chậu như: Thể chậu - đùi: chỉ xâm phạm đến cân đùi; Thể chậu - đùi - cẳng chân: có sự tham gia của cơ cẳng chân trước; Thể đau bẹn: đau bất thường không thành một dạng nhất định và không có dấu hiệu khám xét khách quan thuần nhất.

Các phương pháp điều trị

Điều trị cấp cứu đối với những thể cấp chuyển thành thể tăng cảm đau, giả liệt. Cho điều trị triệu chứng như nằm nghỉ hoàn toàn, phong bế vùng viêm cốt mặc - dây chằng thắt lưng - chậu phối hợp với gây tê cục bộ dịch treo corticoid, ngoài ra cho kết hợp thêm các thuốc chống viêm không steroid và các thuốc giãn cơ.

Điều trị căn nguyên: Dù nguyên nhân nào, khi bệnh chuyển sang thể bán cấp, ít nhiều mạn tính và tái phát thì đều có thể dùng thuốc giảm đau và nằm nghỉ, bệnh cũng tạm lui. Đối với những ca tăng cảm đau tái phát dai dẳng mà điều trị nội khoa kém tác dụng thì phải chỉ định phẫu thuật cắt dây chằng thắt lưng chậu.


Theo PGS Vũ Quang Bích - Sức khỏe & Đời sống

Giúp bạn giảm đau đốt sống cổ

Làm việc máy tính nhiều, ít vận động là một trong những nguyên nhân gây ra thoái đốt sống cổ.

Đây cũng là bệnh thường gặp nhất đối với dân văn phòng.

Nhân viên văn phòng là một trong những đối tượng có khả năng mắc chứng bệnh này cao nhất do thường xuyên ngồi một chỗ, ít vận động, ít thời gian nghỉ ngơi.
Chính vì thế, nếu không muốn bị đau cổ hay nặng hơn là thoái hoá đốt sống cổ, bạn cần tạo lập cho mình những thói quen bảo vệ sức khoẻ ngay tại nơi làm việc. Đó có thể chỉ là những động tác luyện tập hay vươn vai rất đơn giản, không ngồi ì bên máy tính trong thời gian quá dài và kết hợp cùng một chế độ ăn uống khoa học.
Nếu đã thử nhiều cách mà cảm giác đau cổ vẫn không thuyên giảm, bạn nên nhanh chóng đến bệnh viện để kiểm tra, có hướng điều trị kịp thời trước khi quá muộn.
Dân văn phòng hay mắc thoái hóa đốt sống cổ do:

- Vị trí đặt tay trên bàn làm việc hay đối với máy tính quá cao hoặc quá thấp.
- Quá mệt mỏi.
- Vùng cổ và vùng gáy không được thường xuyên cử động, hoặc chỉ giữ nguyên một tư thế.
- Thường xuyên nhìn lên rồi lại nhìn xuống.
- Vị trí ngồi quá thấp so với bàn làm việc.
- Trong khi ngủ chỉ nằm 1 - 2 tư thế, không có thói quen chuyển mình.
- Làm việc kéo dài, ít vận động.
- Lựa chọn gối ngủ không phù hợp.
Biểu hiện thường gặp:
Khi bị thoái hoá đốt sống cổ bạn sẽ có một trong số những biểu hiện cơ bản như sau:
- Cổ cứng nhắc khó xoay chuyển kèm với dấu hiệu đau.
- Đau cổ sau đó lan xuống vai, đau ở các khớp cổ và vai.
- Đau đầu không rõ nguyên nhân.
- Trong một số ít những trường hợp, mất cảm giác khéo léo của tay, đôi khi cánh tay và bàn tay có thể bị tê liệt.

Để giảm đau và thư giãn vùng đốt sống cổ có thể kết hợp với các cách điều trị sau:
- Ghế làm việc phải có độ cao thích hợp so với bàn làm việc và máy tính. Không để ghế ngồi quá cao hay quá thấp.
- Giữ khoảng cách hợp lý từ tay đến bàn làm việc hay máy tính.
- Các chuyên gia khuyên bạn nên sử dụng máy tính có màn hình lớn, tối thiểu là từ 17 inch trở lên. Điều này không chỉ đem lại những hữu ích cho đôi mắt của bạn mà còn giúp các cơ cổ không bị căng, mỏi.
-  Khi ngủ hãy thường xuyên chuyển mình, tránh nằm chỉ một hoặc 2 tư thế sẽ rất dễ bị vẹo cổ. Không nằm sấp, bởi tư thế này sẽ khiến cho cổ bị gập xuống, rất dễ gây nên chứng thoái hoá đốt sống cổ.
- Ngồi cách màn hình vi tính 50-66 cm và đặt màn hình dưới tầm mắt khoảng 10 -20 độ. Không để tầm màn hình quá cao hoặc quá thấp hơn so với tầm mắt. Sắp xếp hợp lý nguồn ánh sáng, chọn những đồ nội thất không bị phản chiếu ánh sáng, giảm ánh sáng và sự chiếu sáng của màn hình máy tính. Chú ý đặt màn hình máy sao cho cùng bên với cửa sổ, sử dụng mành để che bớt ánh sáng, điều này cũng rất có lợi cho mắt.
- Bạn hãy để màn hình thẳng ngay trước mặt chứ đừng để lệch về một bên. Khi ngồi gần bạn nên chỉnh ghế sao cho 2 cẳng tay của bạn song song với nền nhà, 2 đùi vuông góc với cẳng chân và 2 bàn chân của bạn được đặt phẳng trên nền nhà. Bạn cũng nên nhớ luôn giữ thẳng lưng và 2 vai giữ ngang bằng. Nếu bạn sử dụng đồ kẹp hồ sơ dùng khi đánh máy thì kẹp này nên để càng sát màn hình càng tốt.
- Mát xa cổ cũng là một trong những cách giảm đau mỏi cho cổ rất hữu hiệu.
Mát - xa giúp giảm đau

Đầu tiên bạn hãy mát xa từ phần sau cổ, xoa bằng hai tay hoặc một tay. Lòng bàn tay áp sát vào cổ, di chuyển từ phần tóc ở gáy xuống lưng và phần khớp vai. Sau đó, dùng cạnh của lòng bàn tay và ngón cái bóp mạnh
Dùng mu lòng bàn tay day nhẹ từ gáy đến cổ. Thực hiện khoảng 1 - 2 phút. Dùng tay phải tìm đốt sống cổ thứ 7 (to hơn các đốt sống khác) và day xung quanh đốt sống đó.
Tiếp theo, đan hai tay vào nhau và để sau gáy. Ngẩng cằm lên, hít vào từ từ và đếm đến 10. Mắt mở, nhìn lên trần nhà. Khi làm động tác này, tay đóng vai trò là lực cản đầu đang ngẩng lên. Các cơ ở cổ căng hết mức. Thở ra trong 10 giây, cằm từ từ cúi xuống ngực. Dưới sức nặng của tay (lúc này vẫn đan chặt vào nhau để sau cổ), các cơ ở cổ giãn ra. Lặp lại động tác này 3 lần.
- Bạn cũng có thể dùng túi chườm nóng để chườm cũng sẽ giúp bạn loại trừ cảm giác đau đớn.
- Thuốc aspirin cũng là loại thuốc có tác dụng giảm đau nhất thời, bạn nên tham khảo ý kiến  bác sĩ về việc sử dụng loại thuốc này. Tuy nhiên, bạn không nên quá lạm dụng nó sẽ gây nên những mặt trái cho sức khoẻ.
- Stress không chỉ gây nên cho bạn cảm giác rất căng thẳng, mệt mỏi về tâm lý mà còn khiến cho cảm giác đau đớn do chứng thoái hoá đốt sống cổ tăng lên. Chính vì thế, bạn nên bằng mọi cách khống chế và kiểm soát stress.
Theo Minh Hằng - aFamily/ TH

Tái tạo dây chằng chéo khớp gối từ gân dự trữ

Theo PGS.TS Ngô Văn Toàn, (BV Việt Đức) chấn thương dây chằng khớp gối thường bị bỏ qua khi mới mắc, bệnh nhân vẫn có thể đi lại cà nhắc nên chủ quan không đi khám.

Ảnh minh họa
Hiện tại, mỗi tuần, Viện Chấn thương chỉnh hình (BV Việt Đức Hà Nội) phẫu thuật cho hàng chục ca chấn thương dây chằng khớp gối. Đây là một tổn thương dễ gặp do tai nạn hoặc khi chơi thể thao. Nhưng nhiều bệnh nhân không được chẩn đoán sớm và thường được chẩn đoán nhầm sang các bệnh lý khác như viêm khớp sau chấn thương hoặc giãn dây chằng đơn thuần nên điều trị không đúng bệnh.
Đây chính là nguyên nhân khiến bệnh nhân nhập viện khám và điều trị khi bệnh đã nặng, biến chứng teo cơ, cứng khớp.
Để điều trị hiệu quả căn bệnh này BV Việt Đức sử dụng phương pháp tái tạo dây chằng chéo khớp gối bằng nguồn gân dự trữ. Nguồn gân này được tận dụng từ những trường hợp bị tai nạn hoặc của người hiến tặng không mắc bệnh truyền nhiễm. Nguồn gân này phải thông qua một quy trình sàng lọc và xử lý nghiêm ngặt theo quy chuẩn của Hiệp hội Bảo quản mô châu Á và thế giới.
Phẫu thuật này có ưu điểm là bệnh nhân không phải mổ để lấy đi phần gân khác của cơ thể. Kết quả, 95-97% bệnh nhân được phẫu thuật thành công. Phương pháp này loại bỏ được vấn đề thải ghép, không phải dùng thuốc miễn dịch.
Ngoài ra, trong trường hợp tái tạo lần một mà kết quả không như mong muốn, bác sĩ có thể thay thế cho bệnh nhân bằng gân dự trữ lần sau. Nguồn gân dự trữ hiện không nhiều.
Theo Thái Hà - Tiền phong

Phòng tránh tai biến gãy xương ở phụ nữ cao tuổi

Do tuổi thọ con người tăng, bệnh loãng xương dẫn đến gãy xương đang trở thành một vấn đề lớn đối với phụ nữ cao tuổi.

Ảnh minh họa
Một bệnh phổ biến và gây nhiều tác hại
Hiện nay, số phụ nữ cao tuổi nhiều hơn nam giới. Do tuổi thọ con người tăng, bệnh loãng xương dẫn đến gãy xương đang trở thành một vấn đề lớn đối với phụ nữ cao tuổi.
Bệnh thường phát triển thầm lặng, không có triệu chứng rõ rệt, cho đến một ngày nào đó người bệnh bị gãy xương. Bệnh gặp nhiều ở phụ nữ sau tuổi mãn kinh, khi cơ thể không còn sản sinh ra estrogen hoặc chỉ sản sinh ra rất ít estrogen là loại hoocmon giúp xương giữ độ vững chắc.
 
Theo tài liệu của Tổ chức Y tế thế giới riêng tại nước Mỹ người ta ước tính có 24 triệu phụ nữ mắc bệnh loãng xương, hằng năm có 1,3 triệu người bị gãy xương. Ở nước ta theo số liệu của các cơ sở điều trị thì các bệnh thoái hóa khớp và loãng xương ở phụ nữ cao tuổi rất phổ biến. Cũng vì vậy, nhiều khi chỉ do trượt chân hoặc do một chấn thương nhỏ NCT cũng bị gãy xương, thường là gãy cổ xương tay, cổ xương chân, nguy hiểm hơn cả là gãy cổ xương đùi.
Nặng nhất là gãy cổ xương đùi, phải phẫu thuật và điều trị phức tạp. Do xương các cụ bị loãng nên nhiều khi chỉ ngã nhẹ, đập mông xuống sàn nhà cũng có thể bị gãy cổ xương đùi dẫn đến những hậu quả rất xấu. Tuổi càng cao nguy cơ gãy cổ xương đùi càng lớn vì đây là chỗ phải chịu lực lớn nhất do trọng lượng cơ thể phía trên đè xuống và phản lực từ dưới dội lên.
Nhiều cụ đã phải ngồi xe đẩy suốt những năm tháng còn lại của cuộc đời sau lần ngã tưởng như rất nhẹ trên.
Thường gặp nhất là các cụ bị trơn ngã trong buồng tắm, chỉ ngã ngồi đập mông xuống sàn nhà thôi, nhưng rất đau không đi đứng được nữa. Đến bệnh viện khám, thầy thuốc cho biết đã bị gãy cổ xương đùi, phải mổ và điều trị dài ngày. Có cụ dậy đi tiểu ban đêm, bước xuống giường vướng chân vào màn bị ngã, hoặc khi thay quần áo co một chân lên, còn một chân đứng trụ không vững nên bị ngã ngồi đập mông xuống sàn nhà và cũng bị gãy cổ xương đùi. Vì vậy, phải chú ý phòng chống bệnh loãng xương và cố gắng tránh những tai biến gãy xương cho các cụ.
Để đề phòng bệnh loãng xương và tránh tai biến gãy xương
Bệnh loãng xương thường gặp ở phụ nữ từ 50 tuổi trở lên, nhưng sự mất mát hao hụt chất xương đã bắt đầu sớm hơn, từ sau 35 tuổi, khoảng 50% sự hao hụt này xảy ra 7 năm sau mãn kinh. Tuy nhiên, bệnh loãng xương có thể tránh được bằng cách sống hợp lí, thí dụ:
-Về ăn uống: Chất canxi vô cùng cần thiết cho sự vững bền của xương, rất cần từ khi còn trẻ. Liều lượng canxi cần thiết hằng ngày là 1.200mg đối với người từ 11 đến 18 tuổi, 800mg đối với phụ nữ tiền mãn kinh, 1.500mg đối với phụ nữ sau mãn kinh. Những thức ăn giàu canxi là sữa, các loại cua, ốc, tôm, tép, vừng, cà rốt, rau xanh...
-Thể dục thể thao: Đóng vai trò quan trọng trong việc sản xuất và duy trì các chất xương, đặc biệt đối với phụ nữ sau mãn kinh. Thiếu hoạt động thể dục sẽ làm tăng sự hao hụt chất xương.
-Người cao tuổi nên cố gắng tránh bị ngã. Việc đi đứng, sinh hoạt hằng ngày trong gia đình phải cẩn thận, nhất là khi vào những nơi sàn nhà bị trơn ướt như buồng tắm. Tốt nhất là làm thêm tay vịn dọc theo tường trong buồng tắm vì là nơi các cụ dễ bị trượt chân trên nền gạch ướt.
Đi lại trong nhà, các cụ cũng nên chọn dùng loại dép có độ ma sát lớn.
Hiện nay, y học chưa có phương pháp chữa khỏi được bệnh loãng xương, nhưng một số loại thuốc có khả năng hạn chế sự mất mát chất xương, tránh được gãy xương, như việc dùng estrogen có thể làm hạ thấp tỉ lệ gãy xương.
 
Tuy nhiên, không phải ai cũng dùng được estrogen. Thuốc này tuy có tác dụng tốt đối với loãng xương và làm giảm được tỉ lệ gãy xương, nhưng lại làm tăng nguy cơ mắc các bệnh ung thư nội mạc tử cung, ung thư buồng trứng, ung thư vú, đặc biệt là đối với những người có tiền sử gia đình mắc những bệnh này, làm tăng các bệnh ở túi mật. Vì vậy, việc dùng estrogen phải thận trọng và phải do thầy thuốc chỉ định. Nói chung những người có khối u ở vú, gan hoặc niêm mạc tử cung, gia đình có tiền sử ung thư, mắc các bệnh gan hay túi mật... không nên dùng thuốc này.

Theo BS Hương Liên - Người cao tuổi

Gãy xương bánh chè và cách trị

Xương bánh chè là một xương vừng lớn nhất cơ thể, nằm trong hệ thống duỗi đầu gối, che chở mặt trước khớp gối.

Theo một nghiên cứu, gãy xương bánh chè chiếm từ 2 - 4 % các trường hợp gãy xương. Việc điều trị gãy xương bánh chè sớm và đúng phương pháp thường cho kết quả tốt.
Gãy xương bánh chè xảy ra trong trường hợp nào?
Những trường hợp sau đây có thể dẫn đến gãy xương bánh chè: chấn thương trực tiếp, hay gặp ngã đập đầu gối xuống nền đất cứng; đập đầu gối vào vật cứng khi gối đang ở tư thế gấp; bị đánh, ném bằng vật cứng trực tiếp vào xương bánh chè.
 
 Chấn thương gián tiếp thì ít gặp hơn, chẳng hạn người tập thể thao co gấp cẳng chân đột ngột. Bị vũ khí sát thương như bom, mìn, đạn bắn…
Vị trí gãy xương bánh chè thường gặp là gãy ngang chính giữa xương, gãy ở bờ trên hoặc bờ dưới cũng hay gặp. Hiếm gặp gãy theo chiều dọc chi hoặc chiều dày xương bánh chè. Di lệch xương: nếu gãy ngang thì hay gặp di lệch giãn cách, do đầu trên xương bánh chè bị kéo lên trên và hơi chếch ra ngoài bởi cơ tứ đầu đùi.

 Hình ảnh gãy xương bánh chè trên phim Xquang
Triệu chứng gãy xương bánh chè
Khi bị một chấn thương nặng như ngã, va đập vào vật cứng, bị đánh… có thể bị gãy vỡ xương bánh chè với các biểu hiện như sau: đau chói vị trí khớp gối; không nâng chân lên được khỏi mặt ngang nhưng vẫn gấp gối được và đi lại được khi chân duỗi thẳng; chi tổn thương bị biến dạng; ấn có điểm đau chói, có tiếng lạo xạo xương gãy; có dấu hiệu giãn cách xương bánh chè, cử động bất thường; tràn dịch khớp gối; không cử động được động tác duỗi gối. Chụp X-quang thấy xương bánh chè bị gãy.
Bệnh cần phân biệt với các trường hợp: bong gân khớp gối, trường hợp này bệnh nhân vẫn nhấc gót chân lên được khỏi mặt giường.
 
Tổn thương sụn chêm: bệnh nhân vẫn đi lại được, nhưng có hiện tượng kẹt khớp tái diễn như đang đi tự nhiên khớp gối bị mắc cứng lại, không gấp duỗi được, phải ngồi nghỉ 2-3 phút, xoa bóp tại chỗ sau đó lại đi được bình thường.
 
Đứt dây chằng chéo: có dấu hiệu đau vùng khớp gối; bất lực vận động khớp gối gần như hoàn toàn; biến dạng khớp gối; dấu hiệu ngăn kéo ( +).
Biến chứng của gãy xương bánh chè gồm: teo cơ tứ đầu đùi, xơ hoá,vôi hoá dây chằng bao khớp. Hạn chế cử động gấp duỗi khớp gối gây ảnh hưởng xấu tới phục hồi chức năng chi tổn thương. Can lệch xương, gây thoái hoá khớp gối. Viêm mủ khớp gối. Khớp giả.
Chữa trị và phòng bệnh
Trường hợp gãy xương bánh chè có di lệch giãn cách dưới 3mm và chênh diện khớp ở mắt sau xương bánh chè dưới 1mm; gãy rạn xương bánh chè. Điều trị bằng cách: chọc hút hết máu tụ trong khớp; bó bột đùi - cổ chân - bàn chân trong tư thế gối duỗi hoàn toàn, thời gian từ 8-10 ngày. Tập vận động theo hướng dẫn của bác sĩ.
Nếu gãy xương bánh chè có giãn cách trên 3mm và gãy ngang thì dùng phương pháp phẫu thuật để điều trị. Kết hợp xương bằng cách xuyên 2 đinh Kirscher song song và buộc néo ép số 8 dựa trên nguyên lý cột trụ của Pauwels.
 
Phương pháp này có ưu điểm là đơn giản, cố định vững chắc ổ gãy, tập vận động được sớm, càng tập càng nhanh liền xương và thường tập vận động 2 ngày sau mổ. Khâu cố định xương bánh chè bằng chỉ thép: buộc vòng thép quanh chu vi xương của Berger, dùng cho trường hợp gãy xương bánh chè thành nhiều mảnh.
 
Phòng bệnh bằng cách phối hợp nhiều biện pháp như: khởi động tốt trước khi vận động, luyện tập, lao động nặng.
 
Dùng băng thun quấn bảo vệ đầu gối trong khi vận động như đá bóng, thi đấu điền kinh, trượt tuyết... Tránh các tư thế gây hại cho khớp gối như: ngồi xổm, quỳ gối hay tập cử tạ mà gánh tạ quá thấp, khuân vác vật nặng… Đi giày dép có đế rộng, độ cao vừa phải khoảng 3cm.
 
Vai trò của xương bánh chè trong khớp gối
 
Cấu tạo khớp gối gồm: 3 xương, xương đùi, xương chày và xương bánh chè. Sụn chêm ở giữa mặt khớp lồi cầu đùi - mâm chày có tác dụng  giảm sóc khi sụn khớp lồi cầu đùi và mâm chày tiếp xúc khi vận động và giữ cho khớp gối được vững vàng.
 
Các dây chằng bên trong, bên ngoài và hai dây chằng chéo trước và chéo sau có tác dụng giữ cho khớp gối vững chắc. Dây chằng chéo trước có tác dụng chủ yếu là giữ không cho mâm chày trượt ra trước và dây chằng chéo sau giữ cho mâm chày không bị trượt ra sau.
 
Dây chằng bên ngoài giúp gối không bị vẹo trong, dây chằng bên trong giúp cho gối không bị vẹo ra ngoài. Toàn bộ khớp gối được bao bọc bởi một lớp màng hoạt dịch có tác dụng tiết ra dịch khớp để bôi trơn trong quá trình cử động.
 
 
Theo ThS Trần Ngọc Hương - Sức khỏe & Đời sống

Xử lý khi bị gãy xương chậu

Gãy xương chậu chiếm tỷ lệ 1-2% trong tổng số gãy xương, là xương xốp nên khi gãy gây chảy máu nhiều.

Gãy xương chậu chiếm tỷ lệ 1-2% trong tổng số gãy xương, là xương xốp nên khi gãy gây chảy máu nhiều. Gãy xương chậu chia ra 3 loại: gãy thành xương cánh chậu: di lệch ít, điều trị dễ; gãy ổ cối: điều trị khó, dễ biến chứng, ảnh hưởng đến chức năng hoạt động của khớp hông sau này; gãy khung chậu: chảy nhiều máu, dễ sốc, hay kèm tổn thương cơ quan nội tạng trong khung chậu gây nguy hiểm đến tính mạng. 
Kết hợp xương bằng nẹp và vít điều trị gãy xương chậu
Đặc điểm giải phẫu khung chậu
Khung chậu có hình như một cái chậu thắt ở giữa, được cấu tạo bởi 2 xương chậu, xương cùng và xương cụt. Xương chậu gồm 3 xương hợp lại là xương chậu, xương ngồi, xương mu, tiếp giáp 3 xương là ổ cối, phía trước là khớp mu, phía sau khớp với xương cùng của cột sống gọi là khớp cùng chậu.
Nguyên nhân gãy xương chậu là gì?
Thường gặp gãy xương chậu do ngã: ngã ngồi gây gãy ụ ngồi, gãy ngành cánh chậu (gãy kiểu Duverney); do chấn thương: xương chậu bị ép lại trong trường hợp xe đè qua hay bị vật nặng đè ép, rơi từ độ cao lớn, do sập hầm, vùi lấp, tai nạn giao thông.
 
Vận cơ quá mức thường gặp ở người chơi thể thao, luyện tập võ thuật, động tác đột ngột trong lao động: gãy gai chậu trước trên do cơ căng cân đùi và cơ may kéo mạnh, gãy gai chậu trước dưới do cơ thẳng trước kéo, gãy cánh chậu do cơ mông nhỡ kéo.
Những tổn thương gãy thường gặp
Gãy khung chậu: sau chấn thương bệnh nhân thấy sưng nề, tụ máu vùng gãy xương;  không nâng được chân lên khỏi mặt giường; ép giữa khung chậu thấy đau chói.
 
Triệu chứng tổn thương các cơ quan trong khung chậu và trong ổ bụng: rách, đứt niệu quản, vỡ bàng quang, đứt niệu đạo, tổn thương âm đạo, tử cung, vòi buồng trứng, mạch máu, thần kinh, vỡ thận, gan, lách, thủng ruột non, ruột già.
 
 Chụp Xquang thẳng nghiêng thấy hình ảnh gãy xương: gãy cung trước, cung sau, trật khớp mu, trật khớp cùng - chậu.
 
Gãy thành chậu, rìa chậu: Bệnh nhân không co gấp đùi vào bụng được, bất lực vận động, đau nhiều ở vùng gãy nếu sưng nề lớn; ấn đau tại chỗ: ụ ngồi, gai chậu trước trên, gai chậu trước dưới, xương cùng, xương cụt; ép khung chậu đau; nếu  gãy xương cùng, ngành mu chậu thì thăm âm đạo, trực tràng đau.
 
 Chụp Xquang xác định thể gãy thành chậu: gãy gai chậu trước trên và trước dưới; gãy dọc cánh chậu; gãy ngang cánh chậu kiểu Duverney; gãy ngang xương cùng; gãy ngành mu - chậu; gãy ụ ngồi; gãy ngành ngồi - chậu; gãy ngang xương cụt.
Gãy ổ cối: Bệnh nhân đau nhiều trong khớp háng; không đứng, không cử động được khớp háng; nếu làm cử động khớp háng bệnh nhân sẽ rất đau; vị trí mấu chuyển lớn có thể bị di lệch khi trật khớp háng trung tâm. Chụp Xquang phát hiện gãy rìa trên, rìa dưới ổ cối; gãy rìa ổ cối mảnh lớn gây bán trật khớp háng nhẹ; gãy đáy ổ cối có chỏm xương đùi lọt qua gây trật khớp háng trung tâm.
Chẩn đoán phân biệt: Gãy xương chậu cần phân biệt với các trường hợp: đụng giập phần mềm khung chậu; trật khớp háng; gãy cổ xương đùi.
Biến chứng: Gãy xương chậu có thể có các biến chứng như sốc do bệnh nhân bị mất máu nhiều; viêm phổi do bệnh nhân phải nằm lâu ngày, viêm đường tiết niệu; bán trật khớp háng; trật khớp háng trung tâm; tổn thương các cơ quan trong khung chậu; viêm phúc mạc giả do máu tụ sau phúc mạc; can lệch trong các trường hợp gãy ổ cối, gãy khung chậu di lệch lớn; thoái hoá khớp háng; hoại tử chỏm xương đùi.
Cách xử lý
Sơ cứu: Nếu gãy thành chậu có thể dùng thuốc giảm đau tại chỗ và toàn thân; vận chuyển nhẹ nhàng trên võng đến bệnh viện. Trường hợp gãy khung chậu chỉ dùng thuốc giảm đau tại chỗ, không dùng thuốc giảm đau toàn thân khi chưa rõ tổn thương kết hợp; vận chuyển bệnh nhân nhẹ  nhàng trên ván cứng về cơ sở điều trị.
Điều trị: Nếu bệnh nhân bị sốc phải chống sốc tích cực. Đồng thời  phải điều trị các tổn thương kết hợp.
+ Gãy thành chậu: thường điều trị bảo tồn, bệnh nhân phải nằm bất động trên giường từ 2-4 tuần. Đối với gãy Duverney, do di lệch lớn nên phải nắn chỉnh, băng dính tại chỗ và bất động trên giường 4-6 tuần. Nếu gãy xương cụt: nắn chỉnh qua trực tràng hoặc phẫu thuật.
 
 Gãy gai chậu trước trên, gai chậu trước dưới cần phẫu thuật khâu dính lại, kết hợp xương bằng vít. Gãy ổ cối kết hợp xương bằng đinh Kirschner qua lồi cầu xương đùi kéo liên tục với trọng lượng 8 - 10kg trong 10 - 14 tuần.
+ Gãy khung chậu: điều trị bảo tồn nếu gãy một cung trước hoặc sau ít di lệch, cho bệnh nhân nằm bất động 5-6 tuần. Gãy hai cung, gãy kiểu Malgaigne ít di lệch, cho bệnh nhân nằm bất động trên giường, gác chân trên giá Braun 4-8 tuần.
 
Gãy khung chậu di lệch: nắn chỉnh bằng xuyên đinh Kirschner qua lồi cầu xương đùi kéo liên tục, chân đặt trên giá Braun kéo trọng lượng bằng 1/7 trọng lượng cơ thể liên tục trong 10 -14 tuần. Có thể để người bệnh để mông trên võng vải bắt chéo giúp cho diện  gãy ép vào nhau. Bệnh nhân cần tập vận động khi liền xương.
 
Dùng phương pháp phẫu thuật đối với các trường hợp: gãy cung trước di lệch nhiều như ngành mu - chậu, kết hợp xương bằng nẹp vít, đinh chữ U; gãy toác khớp mu: kết hợp xương bằng buộc vòng dây thép, nẹp vít cố định khung chậu bằng khung cố định ngoài; gãy  thành sau hoặc gãy toác dọc cánh chậu: kết hợp xương bằng nẹp vít.

Theo ThS Trần Ngọc Hương Sức Khỏe & Đời Sống

Củ gừng trị viêm khớp

Củ gừng trị viêm khớp

Có lợi cho sức khỏe tổng thể
Gừng luôn được coi là một thực phẩm linh hoạt có lợi cho sức khỏe tổng thể. Theo những nghiên cứu về các loại cây, gừng có lợi cho hệ tiêu hóa và có thể dễ dàng giảm tình trạng đau đớn, viêm sưng cho cơ thể vì gừng có đặc tính kháng sinh cao có thể giúp chữa lành các vết loét và vết thương.
Có lợi cho hệ thống tiêu hóa
Gừng với vị thơm đắng nên có thể được sử dụng để giảm bớt các vấn đề về đường tiêu hóa. Chúng giúp kích thích tiêu hóa và các cơ đường ruột.
Đặc biệt củ gừng và phần nối giữa củ và thân gừng còn giúp chữa bệnh đại tràng, giảm bớt tình trạng chuột rút và giảm những cơn buồn nôn. Để nhận được những lợi ích của củ gừng trong việc điều trị đường tiêu hóa, các bác sĩ khuyến cáo bạn nên ăn mứt gừng tươi.
Điều trị viêm khớp
Củ gừng giúp ức chế việc sản xuất ra các hóa chất có thể gây ra nguy cơ bị viêm trong cơ thể.
Được biết, hóa chất có trong gừng là cytokine có thể kích thích lưu thông máu, làm giảm sưng và đau liên quan đến những rối loạn viêm nhiễm, bao gồm viêm khớp.
Theo Lê Nhi - Dân trí/ Ehow

Dấu hiệu nhận biết bệnh lao cột sống

Khi mới bị bệnh triệu chứng chủ yếu là đau tại chỗ đốt sống bị tổn thương, sau đó đau tăng khi đi lại, mang vác, khi ho, hắt hơi...

Ngoài các nguyên nhân thường gặp của hội chứng đau lưng do thoái hoá đĩa đệm cột sống cần chú trọng phát hiện sớm những biểu hiện ban đầu của bệnh  Nếu được xác định chẩn đoán và điều trị tại chuyên khoa bệnh lao thì có thể tránh được những hậu quả nặng nề sau này.
Lao cột sống chủ yếu gây tổn thương ở đĩa đệm và thân đốt sống, hiếm gặp tổn thương ở cung sau. Bệnh có thể xảy ra tiên phát ở cột sống, có thể là thứ phát ở bệnh nhân lao phổi, lao hạch...
Dấu hiệu nhận biết bệnh
Ngoài hội chứng nhiễm khuẩn, nhiễm độc như trong các bệnh lao khác như mệt mỏi, gầy sút, chán ăn, sốt về chiều, còn kèm theo các triệu chứng về cột sống và rễ thần kinh.
 
Biểu hiện: khi mới bị bệnh triệu chứng chủ yếu là đau tại chỗ đốt sống bị tổn thương, sau đó đau lan theo rễ thần kinh tương ứng, đau tăng khi đi lại, mang vác, khi ho, hắt hơi... nằm nghỉ thì đỡ đau, đau tăng dần, các phương pháp điều trị giảm đau không đỡ. Khám xét thấy có điểm đau cột sống, cạnh sống khu trú.
 
Cột sống thắt lưng bị giảm hoặc mất ưỡn cong sinh lý, hạn chế vận động, co cứng các cơ cạnh sống. Đến giai đoạn bệnh toàn phát, đĩa đệm và cột sống bị phá hủy nặng, đồng thời tạo thành ổ áp-xe lạnh quanh vùng bị tổn thương.
 
Biểu hiện lâm sàng nặng nề, đau ở đốt sống bị tổn thương tăng lên, đau liên tục, kèm theo các rễ thần kinh, có hội chứng chèn ép tủy hoặc đuôi ngựa. Đốt sống bị tổn thương lồi ra phía sau, cột sống có thể bị lệch vẹo, vận động bị hạn chế.
 
Tùy theo đốt sống bị tổn thương sẽ xuất hiện triệu chứng thần kinh khu trú tương ứng, ví dụ tổn thương đốt sống ngực 2 và 3 sẽ gây chèn ép khoang tủy 3 - 4, biểu hiện lâm sàng bằng liệt hai chi dưới kiểu trung ương và có các triệu chứng rối loạn thần kinh thực vật, rối loạn dinh dưỡng ở dưới khu vực bị tổn thương.
 
Nếu tổn thương ở đốt sống thắt lưng L2 và L3, sẽ gây chèn ép đuôi ngựa ở cao, biểu hiện thần kinh bằng liệt ngoại vi và mất cảm giác ở hai chi dưới, rối loạn cơ vòng kiểu ngoại vi, rối loạn thần kinh thực vật và dinh dưỡng nặng nề ở hai chi dưới. Khám có thể thấy ổ áp-xe lạnh, ổ mủ nằm dưới lớp da hoặc lớp cơ, tại chỗ không thấy nóng đỏ, không đau.
 
Ổ áp-xe có vị trí khác nhau tuỳ theo nơi tổn thương ví dụ, lao ở cột sống lưng, mủ áp-xe đi theo liên sườn ra phía sau, tạo ổ áp-xe lạnh nằm cạnh hai bên cột sống dạng hình thoi; lao ở cột sống thắt lưng mủ áp-xe đi theo bao cơ thắt lưng - chậu xuống, tạo ổ áp-xe ở hố chậu hoặc ở bẹn (vùng tam giác Scarpa).
Ngoài các biểu hiện: bệnh nhân sốt, gầy sút, có thể thấy tổn thương lao ở nơi khác như lao phổi, lao hạch, lao ruột...

Cột sống bình thường (trái) và cột sống bị tổn thương do lao (phải)
Phương pháp hỗ trợ chẩn đoán bệnh
Chụp Xquang có thể thấy hình ảnh tổn thương lao điển hình là đĩa đệm hẹp lại và ở giai đoạn muộn các thân đốt sống dính sát lại với nhau, bờ thân đốt sống phía trên và dưới đĩa đệm bị phá hủy tạo hang lao, thân đốt sống bị xẹp, nhất là ở phía trước làm cho đốt sống có hình chèm và cột sống bị gù, mỏm gai của đốt sống đó lồi ra phía sau.
 
 Nếu có ổ áp-xe lạnh thì trên phim Xquang sẽ thấy bóng mờ của túi áp-xe lạnh. Hình ảnh Xquang của lao cột sống khác với tổn thương ung thư: trong ung thư tổn thương chủ yếu ở đốt sống, đĩa đệm không bị tổn thương, vì vậy không thấy xẹp đĩa đệm và dính các đốt sống. Tổn thương do lao không có phản ứng dày xương, ngà xương kèm theo sự phá hủy xương.
 
Tổn thương lao ít gặp ở cung sau đốt sống, vì vậy nếu thấy phá hủy ở cung sau có thể chẩn đoán do ung thư. Các xét nghiệm khác như tốc độ lắng máu tăng, phản ứng Mantoux (+). Đối với người bệnh, khi có những biểu hiện sớm của bệnh phải đến chuyên khoa lao để được xác định chẩn đoán. Ở đó người ta còn sử dụng những phương pháp chẩn đoán hiện đại hơn và những biện pháp điều trị có hiệu quả nhất.
Lao cột sống được điều trị như thế nào?
Khi mắc bệnh lao cột sống, người bệnh được sử dụng các thuốc chống lao theo phác đồ của chuyên khoa lao kết hợp với thuốc giảm đau, vitamin, tăng cường nuôi dưỡng. Nếu người bệnh mới bị, bệnh còn nhẹ chỉ nằm bất động cột sống tại giường khoảng 3- 4 tháng.
 
Nếu bệnh nặng cần sử dụng giường bột, máng bột để cố định cột sống, có thể cho bệnh nhân tập vận động, xoa bóp chân tay để tránh teo cơ, cứng khớp. Chỉ định điều trị ngoại khoa khi đã có biểu hiện chèn ép tuủy, chèn ép đuôi ngựa và khi có ổ áp-xe lạnh.
Theo PGS Vũ Quang Bích Sức Khỏe & Đời Sống

Thực phẩm ngăn ngừa bệnh hư khớp

Hư khớp là một dạng thoái hóa khớp mãn tính, thường gặp ở phụ nữ hơn nam giới, xuất hiện sau tuổi 40 và trở nên nghiêm trọng hơn sau tuổi 65.

Cua - Ảnh: Minh Khôi
 
Đầu gối, hông và đốt sống là những khớp bị tấn công nhiều nhất. Khớp bị đơ cứng, biến dạng, thậm chí gây đau đớn. Theo tạp chí Health & Nutrition thì hư khớp không phải là khó chữa, không phải là kết cuộc trực tiếp của sự lão hóa mà thường là do dư thừa gốc tự do.
 
Bằng cách ăn những thực phẩm ức chế các tế bào gây hại và giảm các gốc tự do, ta có thể hạn chế sự gây hại của chứng hư khớp và hạn chế liều lượng thuốc phải dùng.
 
Một số loại thực phẩm cần thiết là: rong biển (có thể cắt sợi cho vào thức ăn hoặc cuốn sushi); dầu thực vật với lượng dùng phù hợp; su su, bắp cải và một số loại rau cải khác; chem chép, hàu, tôm, cua, sò, ốc có nhiều chất chống ô xy hóa, nhất là kẽm và selenium.
 
Theo Minh Quân - Thanh Niên

Vì sao vẹo cột sống?

Vẹo cột sống (skoliosis) là sự nghiêng đi của cột sống cùng với sự xoay bắt buộc của thân đốt sống.

Bệnh này đã được mô tả từ 200 năm trước công nguyên.

Từ sự biến dạng cột sống (ảnh) sẽ kéo theo sự biến dạng của lồng ngực và cả thân người. Cũng từ đó mà làm biến dạng tư thế của các cơ quan trong lồng ngực, ổ bụng, gây rối loạn chức năng hệ tim mạch, hệ cơ, hô hấp, cơ quan tiêu hóa…
 
Tất cả những biến loạn trên làm kém đi thể lực của bệnh nhân, giảm hoặc mất khả năng lao động, cũng có thể trở nên tàn tật hoàn toàn. Chính vì vậy nên thầy thuốc không chỉ quan tâm đến biến dạng của cột sống mà phải quan tâm đến cả những rối loạn toàn thân do bệnh vẹo cột sống gây ra.
Về mặt cấu trúc, cột sống là một cột xương dài uốn éo từ dưới xương sọ đến hết xương cụt, nó như một trục chính đỡ thân hình, gồm 7 đốt cổ, 12 đốt ngực, 5 đốt thắt lưng. Các đốt này chồng lên nhau nhưng không dính với nhau và cho phép cột sống được cúi, ngửa, nghiêng, xoay dễ dàng. Năm đốt xương cùng dính với nhau gọi chung là xương cùng, 4 đến 6 đốt nữa nhỏ và cằn cỗi dính liền với nhau gọi là xương cụt.
Ở phía sau các thân đốt sống có chứa tủy sống. Từ đây phát ra các dây thần kinh để điều khiển tứ chi và một số cơ quan. Khi vẹo cột sống nặng, tủy sống có thể bị ép, ảnh hưởng tới vận động của hai chân.
Các loại vẹo cột sống, gồm:
Vẹo bẩm sinh: Do biến đổi ở khung xương sườn phụ (như dính liền các xương sườn ở một bên, thêm xương sườn phụ, thêm bán phần đốt sống, dính các ngành ngang hai bên thân đốt sống, khuyết cung đốt sống, trượt nhẹ đốt sống…).
Vẹo do nguyên nhân thần kinh: Bệnh do hậu quả của sốt bại liệt, còn có thể do bệnh nhược cơ tiến triển (myopathia progressiva), u xơ thần kinh, bại não…
Vẹo do mất cân bằng: Thường xuất hiện do một nguyên nhân nào đó ở chi dưới (như cứng khớp háng bẩm sinh, ngắn một chân…) làm cho cột sống nghiêng đi.
Vẹo tự phát: Nhiều nhất ở dạng này là do còi xương, đặc biệt là vẹo cột sống còi xương có tính chất di truyền.
Vẹo mắc phải do tư thế: Chẳng hạn như ngồi sai lệch, quen xách vật nặng bằng một tay (như xách cặp đi học, do tập luyện thể dục thể thao không đúng phương pháp...).

Theo TS-BS Lê Đức Tố - Người lao động

Bệnh viêm khớp nên tập thể dục thế nào?

Hoạt động thể chất, một phần quan trọng giúp kiểm soát chứng viêm khớp, có thể giúp giảm đau và cải thiện khớp xương.

Trung tâm kiểm soát và phòng bệnh Mỹ cho biết những bài tập sau đây có thể giúp cải thiện sức khỏe mà không gây sức ép lên khớp xương: các bài tập thể dục như bơi lội, đạp xe, thể dục nhịp điệu dưới nước, khiêu vũ, đi bộ nhanh, làm vườn; các bài tập tăng cường cơ bắp, trong đó có cử tạ; các bài tập giúp cải thiện sự thăng bằng, như tập dưỡng sinh, đi bộ ngược và đứng trên một chân.
Theo Mai Duyên - Thanh Niên


Đau lưng có thật đơn giản

Cột sống bảo vệ bên trong nó tủy sống để từ đây cho ra các rễ thần kinh điều khiển vận động hai chân, cũng như các cơ quan của cơ thể.

Dường như ai trong cuộc đời cũng từng bị đau lưng (ĐL), có những người bị đau lưng tới mức không đi được phải nằm một chỗ, có người cứ âm ỉ liên tục. Có người trầm cảm vì chạy chữa khắp nơi mà không bớt ĐL. Vậy tại sao chúng ta ĐL? Làm thế nào để giảm ĐL trong một cuộc sống mà việc mưu sinh dường như đã lấy hết thời gian không còn chỗ cho sự ngơi nghỉ.

Cấu tạo cột sống

Cột sống bao gồm nhiều đốt sống chồng lên nhau qua một nhân đĩa đệm và được nối với nhau và giữ chặt bằng hệ thống các khớp, dây chằng cũng như gân, cơ bao xung quanh cột sống. Cột sống bảo vệ bên trong nó tủy sống để từ đây cho ra các rễ thần kinh điều khiển vận động hai chân, cũng như các cơ quan của cơ thể.


Thành phần nào trong cột sống có thể gây đau?

Người ta thấy ngoại trừ xương và nhân đĩa đệm là không có thần kinh chi phối nên không gây ra cơn đau khi bị hư hại. Ngoài ra, các thành phần khác đều gây ra cơn đau khi bị hư hại, chẳng hạn như: cảm giác đau căng tức âm ỉ do dây chằng, gân cơ bị căng quá mức do ngồi hay đứng lâu. Hoặc cảm giác đau khi mỗi sáng thức giấc và vận động với cảm giác khó xoay trở thân mình, do tình trạng thoái hóa các mặt khớp xoay của hai đốt sống liền kề, cảm giác này mất đi khi vận động một thời gian. Xương đốt sống khi bị gãy hay bị ung thư “ăn” có thể gây ra cơn đau do màng xương bị thương tổn với các kiểu đau chói hay đau âm ỉ tùy theo thời gian bị tổn thương. Tủy sống hay rễ thần kinh bị chèn ép sẽ gây ra cơn đau theo kiểu lan ra trên đường đi của rễ thần kinh.

Những gì làm cho các thành phần cột sống bị đau?

Ở đây, không đề cập đến cơn ĐL do chèn ép rễ thần kinh vì thoát vị đĩa đệm hay trượt đốt sống, bởi đây là cơn đau điển hình, có hình ảnh rõ ràng để chẩn đoán và điều trị được tương đối dễ dàng bằng thuốc hay phẫu thuật. Chúng tôi muốn nói đến cơn ĐL mà khi chụp phim X-quang lên thường không thấy gì hay có vài hình ảnh gai thoái hóa và được cho thuốc uống nhưng bệnh không giảm (hay có giảm) nhưng lại bị đau khi ngưng thuốc.

Thông thường, đây là kiểu đau âm ỉ, tưng tức, đau vùng thắt lưng ngang với lưng quần, lan ra hai bên mông, có thể chạy dọc lên cột sống thắt lưng hay đau hai bên cơ cột sống. Khi ấn vào các dây chằng liên mấu gai, tức là ấn vào các cục xương trên đường xương sống như cách nói của bệnh nhân (BN) thì gây ra cơn đau khó chịu. Đấm vào cột sống gây cơn đau tức nhưng làm BN cảm thấy dễ chịu. Đây là những BN làm việc văn phòng, ngồi hay đứng bán ở chợ, trong cửa hàng, những người bưng bê hàng hóa hay làm việc đồng áng phải khom lưng nhiều. Một số quý bà nội trợ tưởng là nhàn hạ nhưng lại hay ngồi xổm, khom lưng rửa chén hay làm bếp và nhất là nằm võng ở dưới quê.

Cột sống có những đoạn cong và ưỡn tự nhiên như: cổ ưỡn ra trước, lưng cong ra sau, thắt lưng cong ưỡn ra trước và vùng cùng cụt cong ra sau. Các dây chằng, gân và cơ giúp giữ vững cột sống cũng nhằm mục đích giữ cho cột sống có hình dạng thế này. Thế nhưng các tư thế khom lưng, ngồi gù lưng, nằm võng hay ngồi xổm khiến cho hệ thống gân cơ bị căng. Khổ nỗi là “khổ chủ” không nhận ra điều này. Mới đầu cảm thấy mỏi, đau tức, nghỉ ngơi thì hết. Nhưng ngày nào cũng một tư thế khiến cho gân cơ dây chằng quá tải gây đau triền miên. Sự vôi hóa dây chằng gây ra hình ảnh gai xương.

Như vậy, những động tác làm mất hình dáng bình thường của cột sống như: ngồi gù lưng, đứng khom lưng do vô tình hay cố ý, mang giày cao gót, nằm võng… sẽ gây quá tải trên cột sống, sự thiếu vận động sẽ làm cho các cơ không chịu nổi áp lực lên chúng gây ra những cơn ĐL triền miên. Tuy vậy, những nghiên cứu mới đây cho thấy, những biến đổi trên hệ thống thần kinh trung ương khiến một số người dễ bị ĐL hơn người khác, dù chưa có bằng chứng chắc chắn.

Làm gì cho hết đau lưng?

Câu hỏi thật đơn giản nhưng thật phức tạp. Vì bản thân người bệnh luôn đi tìm một nguyên nhân nào đó thật ghê gớm và không chấp nhận một nguyên nhân quá đỗi đời thường. Thuốc men chỉ là một phần. Tập thể dục, vật lý trị liệu và vệ sinh cột sống là một phần tất yếu của việc chống ĐL nhưng vì quá bận rộn nên chẳng mấy ai nghĩ đến để thực hiện. Kết quả là thầy thuốc và BN dễ trở thành quen nhau vì phải gặp nhau nhiều lần dù là... bất đắc dĩ!

Theo ThS.BS. TĂNG HÀ NAM ANH - Sức khỏe & đời sống

Sơ cứu nhanh khi bị trật khớp

Trật khớp là một tai nạn thường gặp. Nguyên nhân thường do bị chấn thương, bị đánh hoặc trượt ngã khi lao động, đang chơi thể thao.

Trật khớp do khớp bị trật sai lệch vị trí có thể gây đau đột ngột dữ dội. Do đó, cần được sơ cứu nhanh trước khi đưa đến cơ sở y tế.
Trật khớp có thể xảy ra tại các khớp lớn như vai, đầu gối, khuỷu tay hay mắt cá chân hoặc ở các khớp nhỏ hơn như ngón tay, ngón tay cái hoặc ngón chân. Cách sơ cứu như sau:
-  Không di chuyển để tránh lực tác động, không nắn hoặc cố cử động khớp bị trật, hoặc bắt nó trở lại vị trí, điều này có thể gây tổn thương khớp và cơ, dây chằng, dây thần kinh hoặc các mạch máu ở xung quanh.
-  Cố định khớp: Cố định ở tư thế mà khớp đang ở vị trí đó. Nếu trật khớp vùng tay, khuỷu tay có thể có định bằng cách cột tay vào thân người, dùng thân người làm vật cố định nâng đỡ cho tay. Nếu trật khớp ở chân thì có thể cột hai chân lại với nhau, dùng chân lành làm nẹp cố định cho chân bị trật khớp.
- Chườm lạnh lên vùng khớp bị thương để tránh và giảm sưng phù. Có thể dùng đá lạnh chườm trực tiếp lên da hoặc cho đá vào miếng vải để chườm. Không nên chườm nóng, đắp muối, bóp thuốc rượu hay mật gấu vì có thể làm tình trạng xấu đi.
- Nhanh chóng, nhẹ nhàng vận chuyển người bị trật khớp đến cơ sở y tế để các bác sĩ kiểm tra và điều trị.
Theo BS. Trọng Nghĩa - Sức khỏe & Đời sống

5 cách đơn giản trị đau lưng

Cứ 10 người thì có khoảng 8 người phải chịu đựng chứng đau lưng vào một thời điểm nào đó trong đời.

Dưới đây là một số phương pháp nhanh và đơn giản để đẩy lùi chứng đau lưng.
 


 
 
1. Ăn nhiều súp-lơ xanh

Các bạn đều biết rằng canxi là chìa khóa để có bộ xương chắc khỏe, nhưng các nhà nghiên cứu Nhật Bản phát hiện ra rằng bạn cần có một thứ  khác nữa: đó là vitamin K. Vitamin này được tìm thấy trong súp-lơ xanh, rau chân vịt và những rau lá xanh đậm khác giúp cho canxi lắng lại trong xương, giúp xương chắc khỏe.

Bạn càng có bộ xương khỏe bao nhiêu thì toàn bộ cơ thể bạn sẽ càng khỏe mạnh bấy nhiêu - và bạn sẽ càng ít khả năng gặp phải những chấn thương gây đau lưng.

2. Giảm trọng lượng túi xách

Nếu túi xách hay cặp xách của bạn chiếm hơn 10% trọng lượng cơ thể bạn thì như thế là quá nặng. Nhưng bạn vẫn phải mang vác nó phải không? Giải pháp tốt nhất là sử dụng túi xách/cặp xách với quai đeo dài và đeo chéo qua ngực. Còn nếu bạn không thể chia tay được với những chiếc túi xách có quai ngắn? Hãy đeo đổi vai cứ mỗi 20 phút.

3. Ngủ đủ

Một chiếc giường đệm cứng có thể không tốt cho lưng của bạn đâu. Nghiên cứu mới đây được đăng trên tạp chí Spine phát hiện ra rằng những người ngủ trên giường đệm mềm cho biết ít bị đau lưng hơn so với những người ngủ trên giường đệm cứng. 

4. Tập luyện để cơ bụng săn chắc

Cơ bụng săn chắc có thể giúp bạn bảo vệ lưng khỏi bị tổn thương. Hãy tập bài tập củng cố cơ bụng từ 2 đến 3 lần mỗi tuần: Nằm thẳng lưng, co đầu gối, hai bàn chân và lưng áp vào sàn nhà. Hóp bụng lại đẩy rốn về phía xương sống, sau đó co cơ bụng và từ từ nâng khung xương chậu lên khỏi sàn nhà. Hãy lập lại 2 – 3 thao tác trên 12 lần.

5. Ngồi đúng tư thế

Ngồi bàn làm việc trong vòng 8 tiếng (hoặc hơn) mỗi ngày có thể thực sự gây ra một số vấn đề cho lưng. Đảm bảo rằng bạn ngồi tựa lưng vào ghế (nếu cần bạn có thể dùng gối tựa lưng) và hai chân luôn chạm sàn nhà.

Theo Anh Khôi - Dân trí/ Health

Trả lại chiều cao bằng tạo hình đốt sống

Các bác sĩ BV Việt Đức mới đây tạo hình đốt sống bằng bơm xi măng (cement) sinh học có bóng cho các bệnh nhân bị xẹp đốt sống.

Đây là kỹ thuật mới được triển khai tại bệnh viện, giúp giảm đau sớm cho bệnh nhân và trả lại chiều cao cho đốt sống bị xẹp, không để lại biến chứng.
TS Nguyễn Văn Thạch, Phó giám đốc BV Việt Đức, cho biết tạo hình đốt sống bằng cement sinh học là kỹ thuật dùng cement sinh học ở dạng lỏng bơm vào các đốt sống gãy với mục đích dùng cement để hàn gắn, kết nối các mảnh gãy lại với nhau, từ đó không còn hiện tượng xô lệch các mảnh gãy gây đau đớn cho người bệnh.
Kỹ thuật được áp dụng cho các trường hợp gãy lún (xẹp, vỡ…) các đốt sống do loãng xương, chấn thương hoặc các bệnh lí về xương gây ra. Bệnh viện thực hiện trên 18 bệnh nhân với 21 đốt sống, trong đó 11 người bị xẹp đốt sống do loãng xương và 7 người có chấn thương cột sống kèm theo.
Tất cả bệnh nhân trước khi bơm đều có triệu chứng đau lưng dai dẳng, hạn chế vận động, thậm chí không ngồi dậy đi lại được. Sau phẫu thuật 3 tháng, 94,4% bệnh nhân đạt kết quả rất tốt và tốt. Bệnh nhân hết đau, đi lại được.
Theo TS Thạch, gãy lún cột sống do loãng xương hay do chấn thương thường để lại những hậu quả nghiêm trọng về chất lượng sống như gù cột sống, đau lưng mạn tính, liệt hoàn toàn. Xẹp đốt sống do loãng xương là một bệnh lý phổ biến ở người cao tuổi, đặc biệt nữ giới. Bệnh thường gây triệu chứng đau lưng dai dẳng, ảnh hưởng nghiêm trọng chức năng xoay trở, vận động, khả năng ngồi, đứng và di chuyển của người bệnh. Nếu không được điều trị kịp thời có thể dẫn đến các biến chứng như trượt đốt sống, gù cột sống hoặc liệt hoàn toàn.
Những phương pháp điều trị truyền thống là bất động tại giường, dùng thuốc giảm đau, tăng cường sức khỏe. Bơm cement sinh học không bóng đã được dùng để giảm đau cho bệnh nhân, nhưng không giúp trả lại chiều cao cho đốt sống bị xẹp.
Kỹ thuật mới chống chỉ định tuyệt đối trên bệnh nhân bị rối loạn đông máu, suy hô hấp nặng, trong bệnh cảnh nhiễm khuẩn huyết, viêm đĩa đệm hay viêm tủy xương, có tiền sử dị ứng với các thành phần của cement.
Theo Thái Hà - Tiền phong

Đau xương cần nghĩ ngay đến loãng xương

Bệnh loãng xương rất dễ chẩn đoán, tuy nhiên nhiều người thường bỏ qua các triệu chứng của bệnh.

Để sớm phát hiện bệnh loãng xương các bác sĩ đưa ra một số triệu chứng thường gặp sau:
Đau xương là biểu hiện dễ nhận thấy nhất. Thường là đau nhức các đầu xương, đau nhức, mỏi dọc các xương dài, đau nhức như châm chính toàn thân, đau tăng về đêm, nghỉ ngơi không hết.
Đau cột sống, đau như thắt ngang cột sống hoặc lan sang một hoặc hai bên mạn sườn do kích thích các rễ thần kinh liên sườn. Đau cột sống thường kèm theo co cứng các cơ dọc cột sống gây đau, giật cơ khi thay đổi tư thế. Lúc nằm yên, người bệnh thường thấy dễ chịu hơn.
Các triệu chứng toàn thân thường gặp là luôn có cảm giác lạnh hoặc ớn lạnh, hay bị chuột rút, thường ra mồ hôi. Bệnh loãng xương thường có kèm theo các bệnh của người có tuổi như: béo bệu, cao huyết áp, bệnh mạch vành, tiểu đường, thoái hóa khớp…
Loãng xương là bệnh lí của toàn hệ thống xương làm suy yếu sức mạnh của toàn khung xương ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người có tuổi, đặc biệt là phụ nữ sau mãn kinh. Hậu quả gãy xương do loãng xương ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, khả năng vận động của người bệnh. Điều trị loãng xương rất tốn kém, đặc biệt khi đã có các biến chứng nặng nề như gãy xương, gãy lún cột sống.
Bệnh loãng xương khi được phát hiện kịp thời, điều trị có thể làm giảm 50% nguy cơ gãy xương. Nhưng điều quan trọng là phải chẩn đoán sớm và điều trị sớm để ngăn ngừa không bị gãy xương do loãng xương.
Bệnh loãng xương có thể được phòng ngừa tốt bằng việc duy trì một chế độ ăn uống, sinh hoạt, tập luyện, vận động đầy đủ và hợp lí ngay từ khi còn nhỏ đến lúc trưởng thành và trong suốt cuộc đời.
Theo P.N - Lao động

Thứ Tư, 26 tháng 11, 2014

Biểu hiện của bệnh viêm khớp xương mãn tính

Viêm khớp xương mãn tính là một dạng thường gặp của bệnh viêm khớp. Dưới đây là một số triệu chứng điển hình của bệnh.

Các triệu chứng của bệnh có thể sắp xếp từ nhẹ đến nặng. Bao gồm: 
Đau khớp: Các khớp có thể bị đau và chỗ đau thường có cảm giác nóng ran. Đối với một số người, triệu chứng này có thể đến rồi tự đi. Tuy nhiên, khi ngủ nếu bạn có cảm giác đau thường xuyên thì đó có thể là dấu hiệu bệnh viêm khớp đang ngày càng xấu đi thì cần được điều trị cẩn thận. 

Cứng khớp:
 Khi bị viêm khớp, lúc thức dậy vào sáng sớm thường rất khó chịu. Các khớp sẽ cứng dần và có tiếng kêu rắc rắc cho đến khi bạn vận động. Bạn cũng có thể bị cứng khớp khi đang ngồi. 
Cơ  bắp yếu dần đi: Các cơ quanh khớp sẽ ngày càng trở nên yếu hơn, đặc biệt là các cơ quanh đầu gối. 

Sưng tấy:
 Viêm khớp có thể gây ra sưng tấy quanh các khớp khiến chúng ta có cảm giác đau khi chạm vào và đau nhức, đặc biệt vào ban đêm. 

Biến dạng khớp:
 Dường như các khớp sẽ không giữ nguyên được hình dạng ban đầu khi mà một bên khớp bị mài mòn và sập xuống, đặc biệt khi tình trạng bệnh ngày càng tồi tệ. 

Khó hoặc mất vận động
: Lớp sụn hấp thụ lực giữa các khớp ngày càng bị bào mòn và xương ngày càng tiếp xúc trực tiếp với nhau. Kèm theo các cơ cũng bị đau, do vậy, để vận động sẽ rất khó. 

Tiếng kêu từ các khớp
: Bình thường chúng ta có thể nghe thấy tiếng kêu rắc rắc khi bẻ các khớp. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, bạn sẽ không có cảm giác đau nhưng không có nghĩa là khớp hoàn toàn bình thường.

Một khi cảm thấy bị đau khớp, hãy đến khám bác sỹ ngay. Một loạt các xét nghiệm sẽ được tiến hành để xác định bạn có bị viêm khớp không cũng như loại viêm khớp mắc phải. Phát hiện sớm để điều trị kịp thời là cách tốt nhất để phòng ngừa các biến chứng.
Theo Quách Vinh - Dân trí/ WebMD