Thứ Bảy, 27 tháng 12, 2014

Trị gout theo đông y

Bệnh gout (tiếng Pháp: goutte), đông y gọi là thống phong, là bệnh thuộc loại rối loạn chuyển hóa gây tăng hàm lượng acid uric trong huyết thanh.

Dấu hiệu thường thấy của bệnh gout là viêm khớp tái phát nhiều lần, dẫn đến tình trạng dị dạng khớp hoặc nổi nhiều u cục dưới da quanh khớp, gây đau nhức. Khi tiến triển, bệnh có thể gây nên sỏi thận do acid uric, làm suy thận. Tỉ lệ bệnh thường thấy mắc ở nam giới nhiều hơn nữ gấp tới 20 lần và gặp nhiều ở nam lứa tuổi trung niên.
Một bệnh nhân đang điều trị bệnh gout
Ảnh: NGUYỄN THẠNH
Đông y cũng đã nhận ra bệnh này khá sớm nên đã thấy xuất hiện đầu tiên trong sách Đan khê tâm pháp. Đông y cho rằng thống phong là do ngoại tà xâm nhập cơ thể gây tắc nghẽn kinh lạc, khí huyết bị ứ trệ tại khớp, gây đau và làm cho sự co duỗi khó khăn. Bệnh thoạt tiên bắt đầu ở cơ biểu, kinh lạc, bệnh lâu khiến tà khí vào gân xương, gây tổn thương tạng phủ, làm cho chức năng của khí huyết, tân dịch bị rối loạn.
Dấu hiệu của bệnh được thể hiện ở 2 dạng cấp và mạn. Nếu là dạng cấp tính sẽ thấy cơn đau khớp sưng tấy dữ dội, thường thấy tại khớp bàn chân, ngón cái và đau vào đêm (cũng có khi thấy ở các khớp khác như ngón chân, cổ chân, gối…). Khớp đau đỏ sẫm, ấn vào càng đau, làm giảm vận động cơ năng của khớp.
Bệnh cấp tính chuyển thành mạn tính biểu hiện viêm nhiều khớp nhỏ, vừa mạn và đối xứng, tái phát nhiều lần. Tại khớp có thể sưng, nóng, đỏ, đau không rõ và thường có sốt kèm theo và làm dị dạng khớp, co duỗi khó khăn, quanh khớp hay dưới da hoặc vành tai xuất hiện các u cục (hạt tophy) mềm không đau, trong hạt này chứa một chất bột màu trắng như phấn, đó là muối urat. Bệnh tiến triển lâu ngày gây viêm thận kẽ, sạn tiết niệu, tiểu ra máu, suy thận cấp hay mạn.
Dựa theo các dấu hiệu bệnh chứng và nguyên do phát bệnh, đông y có phép biện chứng luận trị khác nhau.
- Với thể cấp tính: Biểu hiện chính là thể phong thấp nhiệt, đột ngột khớp ngón cái hoặc các ngón khác bị sưng nóng, đỏ, đau, không đụng vào được, lại kèm theo sốt, đau đầu, sợ lạnh hoặc bứt rứt, khát nước, miệng khô, tiểu vàng, lưỡi đỏ, rêu vàng bẩn, mạch sáp.
Do vậy, trị liệu cần phải thanh nhiệt, thông lạc, khu phong, trừ thấp. Cần dùng phương "Bạch hổ gia quế chi thang gia giảm", gồm các vị: Thạch cao 40 - 60 g (sắc trước), tri mẫu 12 g, quế chi 4 - 6 g, bạch thược 12 g, xích thược 12 g, dây kim ngân 20 - 30 g, phòng kỷ 10 g, mộc thông 10 g, gải đồng bì 10 g, cam thảo 5 - 10 g, sắc uống ngày 1 thang, chia 2 lần, suốt trong thời gian sưng đỏ nóng sốt.
Trường hợp thấp nhiệt nặng như sưng tấy, đau nhiều: Gia dây kim ngân 40 - 50 g, thổ phục linh, ý dĩ (tăng để trừ thấp) hoặc gia thuốc hoạt huyết như toàn đương quy, đan sâm, trạch lan, đào nhân, hồng hoa, tằm sa để hóa ứ chỉ thống. Trường hợp có biểu chứng thì gia các vị quế chi, độc hoạt, tế tân để giải biểu, tán hàn, chỉ thống.
- Với thể mạn tính: Biểu hiện nhiều khớp sưng đau, kéo dài, co duỗi khó, khớp sưng to, nóng, đỏ không rõ ràng nhưng đau nhiều, dị dạng, kèm tê dại, da tím, sạm đen. Khi chườm nóng, bệnh nhân thấy dễ chịu, mạch trầm huyền hoặc khẩn, lưỡi nhợt, rêu trắng, là triệu chứng của hàn thấp, ứ trệ.
Trị liệu cần khu hàn, thông lạc, trừ thấp, chỉ thống. Dùng chế ô đầu 4 - 5 g, tế tân 4 - 5 g (sắc trước), toàn quy 12 g, xích thược 12 g, uy linh tiên 10 g, thổ phục linh 16 g, tỳ giải 12 g, ý dĩ nhân 20 g, mộc thông 10 g, quế chi 4 - 6 g, sắc uống ngày 1 thang chia 2 - 3 lần.
Trường hợp sưng đau nhiều, cứng khớp, mạch hoãn hoạt, rêu lưỡi trắng bẩn dày, là triệu chứng của đàm trọc ứ trệ thì gia các vị như chích cương tàm, xuyên sơn giáp, hy thiêm thảo, hải đồng bì, để tăng tác dụng hoạt lạc, trừ đàm. Đau nhiều do huyết ứ, gây đau như bị dao đâm, mạch sáp, lưỡi tím bầm gia các vị ngô công, toàn yết, sao diên hồ sách để hoạt huyết, chỉ thống.
Trường hợp thận dương hư biểu hiện liệt dương, đau mỏi lưng gối, chân tay lạnh, sợ lạnh, lưỡi bệu, mạch trầm, hoãn vô lực thì gia các vị như bổ cốt chỉ, nhục thung dung, cốt toái bổ để bổ thận, kiện cốt, định thống. Có triệu chứng khí huyết hư gia các vị hoàng kỳ, đương quy, nhân sâm, bạch truật…
Ngoài ra, cũng còn nhiều cách trị liệu dành cho các thể bệnh khác nhau.


Theo BS Hoàng Tuấn Linh - Người lao động

Thoái hóa khớp gối, bệnh thường gặp ở nữ

Khớp gối là vị trí thường gặp thoái hoá nhất. Trong đó, tỷ lệ nữ mắc bệnh cao hơn nam, chiếm khoảng 80%.

Bệnh liên quan chặt chẽ đến yếu tố "thừa cân", các dị tật của trục khớp gối và các di chứng của bệnh lý tại khớp như viêm, chấn thương.
Triệu chứng của thoái hóa khớp gối
- Đau khớp gối là dấu hiệu than phiền chính yếu của bệnh nhân. Đau mặt trước hoặc trong khớp gối, đau tăng khi vận động, giảm khi nghỉ ngơi, đặc biệt khi chuyển tư thế từ ngồi sang đứng. Giai đoạn đầu đau âm ỉ, không liên tục, xuất hiện khi thực hiện một số động tác đặc biệt như lên xuống bậc thang, ngồi xổm, quỳ gối. Giai đoạn muộn, đau tăng và kéo dài liên tục.
- Hạn chế vận động, khó khăn khi thực hiện động tác gập và duỗi gối. Có thể có tiếng "lạo xạo" trong khớp gối khi cử động.
- Khớp cứng và khó cử động sau khi bất động lâu, hoặc vào buổi sáng khi bắt đầu vận động, thường cải thiện nhanh sau khi người bệnh cố gắng cử động.
-Khớp gối có thể sưng to, có nước nhưng hiếm khi có dấu hiệu viêm nặng (sưng nóng đỏ đau). Có thể có khối u vùng khoeo mặt sau khớp gối do thoát vị màng hoạt dịch khớp gối, còn gọi là nang Baker.
- Teo cơ ở mặt trước đùi do không vận động.
- Chân bị lệch trục kiểu vòng kiềng (chân chữ O) hoặc kiểu chân chữ X. Dần dần đưa đến tình trạng mất chức năng vận động.
-Dấu hiệu Xquang có hình ảnh hẹp khe khớp không đều (thường hẹp nhiều ở mặt trong), kết đặc xương dưới sụn, hình ảnh mọc thêm xương (gai xương, chồi xương) ở mặt và rìa khớp.
khop-jpg[1482088941].jpg
Thoái hóa khớp gối gây trở ngại rất lớn đến vận động đi, đứng.
Ảnh minh họa: artrex
Điều trị thoái hóa khớp gối
Ngoài các bước cơ bản trong điều trị thoái hóa khớp nói chung, trong điều trị nội khoa chú ý dùng giày chỉnh trục, giày sẽ đựơc lót miếng chêm phần gót hoặc bờ bên để giảm lực tác dụng lên khớp gối. Bên cạnh đó, có thể dùng thêm các dụng cụ hỗ trợ để giảm lực tỳ đè cho khớp gối như mang nẹp khớp gối, gậy chống, nạng, khung đi.
Điều trị ngoại khoa thoái hóa khớp gối bao gồm nội soi khớp, đục xương chỉnh trục, thay một phần hoặc toàn bộ khớp gối. Điều trị ngoại khoa thường được chỉ định với các trường hợp khớp gối hạn chế chức năng nhiều, khe khớp hẹp nặng, biến dạng khớp hoặc đau khớp không đáp ứng với các phương thức điều trị nội khoa.
Điều trị qua nội soi khớp, người ta có thể rửa khớp loại bỏ các yếu tố gây viêm, lấy bỏ các dị vật (có thể là các mẩu sụn khớp bị bong ra, hoặc các thành phần bị canxi hóa), gọt giũa bề mặt không đều của sụn, cắt bỏ các sụn chêm bị tổn thương. 
Tuy nhiên, có nghiên cứu theo dõi dài hạn (trên 2 năm) cho thấy không có sự khác biệt về hiệu quả giảm đau cũng như làm chậm tiến triển của bệnh giữa 3 nhóm đối tượng được phẫu thuật nội soi rửa khớp, được phẫu thuật nội soi gọt giũa mặt khớp, và nhóm không được điều trị. Kết quả trên cho thấy hiệu quả của phương pháp nội soi có thể còn hạn chế.
Cũng thông qua nội soi khớp có thể tiến hành ghép sụn lên bề mặt của sụn bị thoái hóa. Kết quả bề mặt sụn bị thoái hóa được phủ bởi lớp sụn mới. Tuy nhiên hiệu quả đạt được của các kỹ thuật trên còn thấp, do đó chưa được áp dụng rộng rãi.
Đục xương chỉnh trục ở xương chày hoặc xương đùi là kỹ thuật tốt để sửa chữa các khớp bị lệch trục như khớp gối vẹo vào trong kiểu chân chữ X hoặc cong ra ngoài vòng kiềng (chân chữ O).
Thay khớp gối nhân tạo từng phần hoặc toàn phần chỉ định đối với các trường hợp thoái hóa khớp gối nặng mà các biện pháp điều trị khác không hiệu quả.

 Theo BS Hồ Phạm Thục Lan - VnExpress

4 chiêu phòng chống thoái hóa đốt sống cổ

Nhiều người bệnh mô tả bệnh thoái hóa đốt sống cổ là "đau đến chết". Vậy làm thế nào để phòng chống? Cảm thấy lưng đau nhức có phải mắc bệnh thoái hóa đốt sống cổ.

4 chiêu phòng chống thoái hóa đốt sống cổ

Phương pháp nhỏ phân biệt: tự mình nhấn vào vùng đau nhức, nếu thực sự đau nhức chủ yếu là cơ bắp có vấn đề.
Thoái hóa đốt sống cổ đa phần là do tủy sống của xương cổ hoặc dây thần kinh bị chèn ép làm cho các bộ phận phối hợp với thần kinh đau nhức, tê liệt. Nếu đau nhức do thoái hóa đốt sống cổ gây ra, khi ấn vào vùng đau nhức không có cảm giác đau. Trong cuộc sống thường ngày, chúng ta đều có biện pháp phòng chống.
Luyện tập cơ cổ
Đây là phương pháp có hiệu quả nhất để dự phòng bệnh thoái hóa đốt sống cổ. Thao tác cụ thể: đặt 2 tay ở phía sau não, đầu dồn sức về phía sau, hai tay lại dùng lực "chống lại" đẩy về phía trước, duy trì tư thế từ 3-5 phút, mỗi lần làm 30 -50 lần, mỗi ngày 2 lần.
Cân bằng dinh dưỡng
Bữa ăn của người bị thoái hóa đốt sống cổ nên có canxi, protein, vitamin B, vitamin C và vitamin E làm thành phần chính, đặc biệt là cá, xương đuôi lợn, đỗ vàng, đỗ đen hàm chứa nhiều protein đồng thời ăn nhiều mướp đắng, cây sắn dây.
Lựa chọn gối dễ định hình
Nên chọn loại gối dễ định hình đồng thời khi ngủ đặt gối ở sau ót chỗ đốt xương cổ.
Ngoài ra phải đảm bảo có giấc ngủ đầy đủ.
Cẩn thận động tác quay vòng đầu, cổ
Không ít người thích tập lắc vòng đầu và cổ để thư giãn phần cổ, cho rằng làm như vậy có thể phòng chống thoái hóa đốt sống cổ. Chuyên gia khuyến cáo, quay vòng đầu, cổ có thể giảm nhẹ sự mệt mỏi của cơ bắp vùng cổ, nhưng những người có đĩa đốt sống cổ lồi ra, thoái hóa đốt sống cổ không nên tập. Quay vòng đầu, cổ quá độ có khả năng làm nặng thêm bệnh thoái hóa đốt sống cổ, người già tốt nhất không nên tập lắc, quay cổ.

Theo Dân trí/ xinhuanet

Những điều cần biết về bệnh đau thắt lưng

Đau thắt lưng cấp xảy ra đột ngột, thường sau chấn thương do chơi thể thao, mang vác vật nặng. Đau thắt lưng kéo dài trên 3 tháng được coi là đau thắt lưng mạn tính.

Đau thắt lưng là một bệnh phổ biến nhất trong những bệnh lý cơ xương khớp. Hầu hết mọi người đều có thể bị đau thắt lưng. Tuy nhiên, có rất nhiều phương pháp điều trị đau thắt lưng hiệu quả.

Nếu bạn bị đau lưng sau khi nâng vật nặng hoặc tập thể dục quá mạnh, có thể bạn bị đau do căng cơ. Nhưng đôi khi, đau thắt lưng có thể do phình đĩa đệm hoặc thoát vị đĩa đệm. Thêm vào đó, đĩa đệm bị tổn thương có thể chèn vào thần kinh tọa, khiến bạn bị đau từ thắt lưng lan xuống mông và chân.

Các triệu chứng của đau thắt lưng
Triệu chứng thường gặp là đau âm ỉ hoặc đau nhói ở một hoặc hai bên thắt lưng. Cơn đau khiến bạn khó khăn khi di chuyển hoặc đứng thẳng. Đau thắt lưng cấp xảy ra đột ngột, thường sau chấn thương do chơi thể thao, mang vác vật nặng. Đau thắt lưng kéo dài trên 3 tháng được coi là đau thắt lưng mạn tính. Ngoài ra, nếu cơn đau cấp của bạn không giảm dần sau 72h, bạn cần khám bác sĩ càng sớm càng tốt.


Nếu bị đau thắt lưng dữ dội sau khi chấn thương, bạn cần khám bác sĩ ngay lập tức. Hoặc khi bị đau lưng kèm theo một trong số các triệu chứng: tiểu tiện không tự chủ, yếu chân, đau tăng khi ho, hắt hơi, tê bì vùng sinh dục, bạn cần khám bác sĩ để được can thiệp ngoại khoa kịp thời. Nếu không, bạn có thể bị ảnh hưởng đến chức năng sinh dục.

Nguyên nhân đau thắt lưng thường gặp

- Do công việc thường xuyên phải nâng, kéo vật nặng. Thậm chí, những công việc khiến bạn phải ngồi cả ngày trước bàn làm việc, hoặc ghế ngồi không phù hợp cũng khiến bạn bị đau lưng.

- Đeo túi xách và ba lô thường xuyên ở một bên vai.

Đặc thù công việc cũng khiến bạn bị đau lưng

- Tập thể dục hoặc chơi thể thao quá mức. Đặc biệt, nếu cả tuần bạn không chơi thể thao và chỉ chơi vào cuối tuần.

- Tư thế đứng gù, vẹo. Đứng thẳng là cách tốt nhất để giảm trọng lực đè nén lên cột sống thắt lưng. Bạn nên đứng thẳng, ngực hơi ưỡn về phía trước, vai hơi ngả ra sau, thì toàn bộ trọng lượng của bạn sẽ được phân đều lên hai bàn chân.

- Thoát vị đĩa đệm: Đây là nguyên nhân phổ biến nhất gây đau thắt lưng ở người trẻ. Đĩa đệm bị thoái hóa, rách bao xơ ngoài, khiến nhân nhầy của đĩa đệm bị thoát ra ngoài, chèn vào các rễ và dây thần kinh cột sống, gây đau đớn với các mức độ từ nhẹ đến nặng tùy theo mức độ thoát vị đĩa đệm.

- Một số bệnh mạn tính cũng có thể khiến bạn bị đau thắt lưng như: hẹp ống sống gây chèn ép lên các dây thần kinh cột sống, viêm cột sống dính khớp (một bệnh có tính chất di truyền, chỉ gặp ở nam giới), lao cột sống, viêm khớp dạng thấp…

Ai có nguy cơ bị đau thắt lưng?

Hầu hết mọi người đều từng trải qua cảm giác bị đau thắt lưng ở độ tuổi 30. Tỉ lệ đau thắt lưng cũng tăng dần theo tuổi. Ngoài ra, có một số lý do khác làm tăng nguy cơ đau thắt lưng bao gồm:

- Thừa cân

- Lối sống ít hoạt động

- Công việc thường xuyên phải mang vác nặng

Chẩn đoán nguyên nhân đau thắt lưng thường cần sự kết hợp giữa các triệu chứng lâm sàng cùng với chụp X - quang, đôi khi cũng cần chụp cắt lớp vi tính hoặc chụp cộng hưởng từ để xác định mức độ tổn thương của đốt sống và đĩa đệm.

Điều trị

Có rất nhiều phương pháp để điều trị đau thắt lưng:

- Chườm nóng hoặc tắm nước ấm có thể giảm đau tạm thời đối với các trường hợp đau lưng do căng cơ, và kết hợp vận động càng sớm càng tốt thì các triệu chứng sẽ giảm rất nhanh.

Tác động cột sống để điều trị đau lưng

- Nghỉ ngơi tại giường

- Tập yoga: luyện tập yoga có thể giúp làm giảm triệu chứng đau thắt lưng với những trường hợp kéo dài trên 3 tháng. Ngoài ra, luyện tập yoga còn mang lại nhiều lợi ích về sức khỏe khác.

- Tác động cột sống: phương pháp này có hiệu quả với một số trường hợp căng cơ, thoát vị đĩa đệm ở mức độ nhẹ.

- Xoa bóp bấm huyệt: Đây là một phương pháp truyền thống rất có hiệu quả đối với hầu hết các trường hợp đau thắt lưng. Thêm vào đó, xoa bóp thường xuyên (1 lần/ tuần) còn giúp khả năng vận động của cột sống thắt lưng được tăng cường.

- Châm cứu: tương tự xoa bóp, bấm huyệt, đây là một phương pháp đã được nhiều nghiên cứu chứng minh trong việc giảm các triệu chứng của đau thắt lưng, cũng như phòng ngừa bệnh tái phát.

Châm cứu cũng là một trong những phương pháp điều trị hiệu quả

- Thuốc giảm đau, thuốc giãn cơ

- Tiêm ngoài màng cứng: áp dụng đối với các bệnh nhân bị chèn ép rễ và dây thần kinh mức độ nặng. Tuy nhiên phương pháp này tiềm ẩn rất nhiều biến chứng và chỉ được thực hiện bởi các bác sĩ chuyên khoa. Thuốc thường dùng là chống viêm giảm đau có chứa steroid.

- Phẫu thuật được chỉ định cấp cứu khi bệnh nhân bị đau thắt lưng có hội chứng đuôi ngựa (tê bì vùng sinh dục, yếu chân, tiểu không tự chủ…) hoặc khi bệnh nhân đã điều trị nội khoa nhưng không có kết quả.

- Vật lý trị liệu: các phương pháp vật lý trị liệu như chạy điện phân, đắp nến, các bài tập tăng cường sức mạnh của cơ bắp… có thể giúp giảm các triệu chứng đau thắt lưng và hạn chế tái phát.

Phòng ngừa đau thắt lưng


Không có một cách nào sẽ ngăn ngừa đau lưng, nhưng bạn hãy tiến hành những bước sau để giảm nguy cơ đau thắt lưng của mình:

- Duy trì trọng lượng cơ thể khỏe mạnh.

- Tập thể dục thường xuyên

- Nâng đỡ trọng lượng cơ thể trên đôi chân chứ không phải trên lưng

- Hãy chắc chắn rằng tư thế làm việc của bạn không làm bạn đau lưng thêm.


Theo Đàn ông

Đau xương chậu khi mang thai

Đau xương chậu là triệu chứng thường gặp khi mang thai, nhất là những tháng cuối của thai kỳ. Tuy nhiên, ở một số thai phụ có thể gặp thời kỳ đầu hoặc giữa thai kỳ.

Những biểu hiện
Đau xương chậu và đau lưng thường xảy ra trong ba tháng cuối của thai kỳ và không ảnh hưởng đến sự phát triển của thai nhi. Đau xương chậu khi mang thai thường có biểu hiện điển hình là đau âm ỉ, đau lan từ xương chậu đến đùi, bẹn, tử cung… Thai phụ cũng có thể cảm thấy đau lưng, đau thắt lưng. Mức độ đau khác nhau, có thể cảm thấy tiếng lạo xạo phát ra từ vùng xương mu và đau lan xuống dưới vùng giữa 2 chân. Cơn đau tăng lên khi đi lại, đi lên xuống cầu thang hay thay đổi tư thế khi ngủ.
Cơm đau cũng tăng vào buổi đêm có thể làm thai phụ thức giấc, nhất là khithức dậy lúc nửa đêm để đi tiểu cũng có thể làm thai phụ cảm thấy rất đau và khó chịu.
Đau xương chậu khi mang thai 1
Phụ nữ mang thai cần hạn chế làm việc nặng. Ảnh: minh họa
Nguyên nhân
Nguyên nhân gây ra đau xương chậu khi mang thai chưa được các nhà chuyên môn thống nhất. Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng có thể liên quan đến sự thay đổi vị trí của cơ quan trong cơ thể vào thời kỳ mang thai, nhất là sự phát triển của thai nhi. Các cơn đau vùng xương chậu cũng có thể là do nội tiết tố estrogen tác động vào các mô sụn sợi và các mô liên kết trong quá trình mang thai; Sự thiếu hụt vitamin D và canxi. Đặc biệt, đối với những thai phụ có các bệnh mạn tính (các bệnh lý của xương) cũng làm xuất hiện cơn đau.
Cần làm gì?
Nếu thai phụ có cảm giác đau vùng xương chậu, nên nằm nghỉ ngơi tại giường, nếu ngồi cần dựa lưng. Tránh đi lại nhiều, làm việc, nâng mang đẩy vật nặng. Nếu các cơn đau tăng dần kèm theo những bất thường cần đến cơ sở y tế để được khám và tư vấn.
Ngoài ra, khi mang thai cần chú ý đến chế độ dinh dưỡng như: ăn uống đầy đủ chất, đặc biệt bổ sung canxi trong bữa ăn hàng ngày, nhất là 3 tháng cuối của thai kỳ (giai đoạn này thai nhi tăng cân nhanh). Không nên thức khuya quá 10 giờ tối.

Theo BS.CK2 Nguyễn Hữu - Sức khỏe & Đời sống

Bệnh gai cột sống: Có nên ăn thức ăn giàu canxi?

Gai cột sống là nỗi ám ảnh của nhiều người bởi nó thường xuyên gây ra đau nhức, làm ảnh hưởng đến chất lượng công việc, cuộc sống.


Gai cột sống là sự phát triển thêm ra của xương trên thân đốt sống, đĩa sụn hay dây chằng quanh khớp. Căn bệnh này là nỗi ám ảnh của nhiều người bởi nó thường xuyên gây ra đau nhức, làm ảnh hưởng đến chất lượng công việc, cuộc sống. Ngoài điều trị bằng thuốc và các phương pháp trị liệu, chế độ ăn cũng rất quan trọng.   
Nguyên nhân gây bệnh
 
Bệnh thường gặp ở người có tuổi từ 35 - 40 trở lên. Nguy cơ mắc bệnh này tăng theo độ tuổi và nam bị nhiều hơn nữ. Gai thường xuất hiện ở đốt sống cổ và thắt lưng, vì hai bộ phận này hoạt động nhiều nhất, nên dẫn đến tình trạng khớp thoái hóa nhanh. Nguyên nhân gây bệnh ở nam giới phần lớn là do lao động nặng, còn nữ giới là do thiếu hụt canxi, hậu quả của việc mang thai và sinh nở mà không được bù đắp đầy đủ.
 
Tuy nhiên, nguyên nhân thường gặp nhất là thoái hóa bản thân xương cột sốngdo chứng loãng xương gây ra. Biểu hiện rõ nhất của bệnh này là những cơn đau lưng xuất hiện thường xuyên, cảm giác khó chịu, bức bối trong cơ thể, dáng đi không bình thường, vẹo vọ hoặc lưng còng xuống... Đôi khi cũng có những cơn đau cấp tính khiến người bệnh cảm thấy nhói buốt, lan sang các vùng khác như vai, thần kinh tọa, đau hông và đùi đến mức không thể đi lại lâu được.
 
Có nên ăn thức ăn giàu canxi? 1
Canxi trong thực phẩm không làm gia tăng tình trạng bệnh gai cột sống.
Chế độ ăn đóng vai trò quan trọng
Ngoài các phương pháp được sử dụng điều trị hiện nay là dùng thuốc, châm cứu, kéo giãn cột sống, vật lý trị liệu thì chế độ ăn uống được xem là yếu tố quan trọng để phòng ngừa gai cột sống. Nhiều người bệnh cho rằng, khi bị gai cột sống thì không nên ăn thức ăn giàu canxi như tôm, cua… Quan niệm này là hoàn toàn sai lầm sai lầm vì canxi trong thực phẩm khi ăn vào nếu thừa đều được thải ra đường phân, vì cơ thể tự điều chỉnh và hấp thụ đủ yêu cầu (loại trừ canxi trong thuốc).
Ngoài ra, lượng canxi trong máu được kiểm soát rất chặt chẽ, không để tăng lên quá mức hoặc giảm quá mức. Điều này cho thấy, ăn nhiều canxi trong thực phẩm không ảnh hưởng đến bệnh, không làm gai mọc nhiều hơn. Canxi là một nguyên tố quan trọng cấu thành xương, mỗi ngày cơ thể cần khoảng 1.200mg canxi. Thức ăn chứa nhiều kali như sữa, các sản phẩm từ sữa là nguồn thực phẩm giàu canxi và dễ hấp thu nhất. Ngoài ra, các loại rau xanh, các loại thủy sản như tôm cua, các loại cá nhỏ để ăn nguyên xương cũng cung cấp một lượng canxi đáng kể.
Lối sống cũng góp phần quan trọng để phòng ngừa gai cột sống. Vì vậy, nên thường xuyên vận động để tăng hấp thu canxi, tập cho xương chắc khỏe. Cần đi ra ngoài trời để tăng tạo vitamin D do da tiếp xúc với ánh nắng sẽ giúp tổng hợp vitamin D. Đây là vitamin giúp hấp thu và chuyển hóa canxi trong cơ thể.
Khi bị gai cột sống, người bệnh cần được bác sĩ chuyên khoa khám, chỉ định chính xác dùng loại thuốc gì. Bác sĩ sẽ căn cứ vào tình trạng bệnh để kê đơn thuốc sao cho hiệu quả nhất. Đa số các thuốc điều trị gai cột sống đều có tác dụng phụ đến dạ dày nên phải uống thuốc sau khi ăn. Căn cứ tình trạng bệnh tật, bác sĩ cũng sẽ có chỉ định phẫu thuật thích hợp.

Theo BS Đinh Văn Minh - Sức khỏe & Đời sống

Thứ Ba, 23 tháng 12, 2014

Cách xử trí đau vùng vai gáy

Hội chứng đau vai gáy không nguy hiểm, song có thể gây ra nhiều lo lắng, khó chịu, mệt mỏi cho người bệnh, làm giảm sút sức lao động và chất lượng cuộc sống.

Nhiều người sau một đêm ngủ dậy bỗng thấy đau nhức khắp mình, đặc biệt là đau tê dại vùng vai, gáy, nhiều khi đau lan xuống bả vai, làm tê mỏi cánh tay, cẳng tay và ngón tay. Triệu chứng này có thể trong nhiều ngày, thậm chí trong nhiều tháng... Hội chứng đau vai gáy thông thường không nguy hiểm, song có thể gây ra nhiều lo lắng, khó chịu, mệt mỏi cho người bệnh, làm giảm sút sức lao động và chất lượng cuộc sống.
 
Nguyên nhân gây đau?
Bệnh hay gặp từ tuổi trung niên khi cơ thể, hệ mạch máu đã giảm tính dẻo dai, đàn hồi.
Có rất nhiều nguyên nhân có thể dẫn đến hội chứng đau vai gáy. Các nguyên nhân thường gặp nhất có thể kể đến là ngồi làm việc, học tập sai tư thế trong thời gian dài, lái xe, làm việc liên tục với máy tính...; bị nhiễm nóng lạnh đột ngột làm giảm sự cung cấp ôxy cho các tế bào cơ, gây thiếu máu cục bộ ở các cơ dẫn đến hội chứng đau vai gáy.
 
Ngoài ra, hội chứng đau vai gáy còn có thể do các bệnh lý như: thoái hóa cột sống cổ, thoát vị đĩa đệm cột sống cổ, vẹo cổ bẩm sinh, dị tật, viêm, chấn thương vùng cổ, ung thư, lao, u hố sau... Hay gặp ở những người hay nằm nghiêng, co quắp, ngồi làm việc, sinh hoạt sai tư thế; khi cơ thể yếu mệt, tốc độ hoạt động của hệ tuần hoàn giảm, việc lưu thông máu và trao đổi ôxy trong cơ thể giảm cũng sẽ dễ bị đau nhức khi ngủ dậy. Đôi khi có những trường hợp hội chứng đau vai gáy xuất hiện tự phát mà không có nguyên nhân rõ rệt.
Cần xác định chứng bệnh qua phim chụp Xquang cột sống cổ tư thế chếch trước trái và chếch trước phải xem có hình ảnh gai xương hay thu hẹp lỗ tiếp hợp gây ra đau.
Cách xử trí đau vùng vai gáy 1
Làm giảm chất lượng sống
Tùy theo từng mức độ của bệnh mà người bệnh có những biểu hiện khác nhau trong chứng bệnh này. Người bệnh có thể đau âm ỉ hoặc đau dữ dội ở vùng gáy lan ra tai, cổ ở một bên. Mức độ đau từ ít đến nhiều có ảnh hưởng tới tư thế đầu - cổ. Cũng có thể cơn đau từ gáy lan xuống bả vai, cánh tay ở một bên hay cả ở hai bên, có cảm giác nhức nhối như bị điện giật.
 
Có trường hợp cơn đau bả vai cánh tay ở một bên, sau một thời gian, người bệnh có cảm giác tê mỏi ở tay bên đau - đây có thể là biểu hiện của rối loạn phản xạ gân xương. Cũng có những người bị đau lan sang hai bên và kèm theo cảm giác chóng mặt, hoa mắt, ù tai, đi đứng loạng choạng, khó nuốt.
Cơn đau nhức có thể xuất hiện tự phát hoặc sau khi lao động nặng, mệt mỏi, căng thẳng, nhiễm lạnh. Đau có thể cấp tính (xuất hiện đột ngột) hoặc mạn tính (âm ỉ, kéo dài). Đau thường có tính chất cơ học: tăng khi đứng, đi, ngồi lâu, ho, hắt hơi, vận động cột sống cổ; giảm khi nghỉ ngơi. Đau cũng có thể tăng khi thời tiết thay đổi. Để chẩn đoán nguyên nhân, người bệnh cần được thăm khám lâm sàng. Các phương tiện hỗ trợ chẩn đoán bao gồm chụp Xquang cột sống cổ, đo điện cơ và chụp cộng hưởng từ (MRI) cột sống cổ.
Nhiều trường hợp tình trạng đau vai gáy kéo dài dẫn đến người bệnh luôn cảm thấy vô cùng mệt mỏi, khó chịu, không tập trung, tư duy kém... ảnh hưởng lớn tới chất lượng sống của người bệnh.
Chữa trị có khó không?
Nếu bệnh nhẹ, cơn đau không kéo dài, bản thân người bệnh có thể tự điều trị bớt đau bằng cách dùng cao dán hoặc dùng hai bàn tay xoa bóp, gõ, vuốt cho vùng cổ, vai, gáy nhiều lần để giảm đau. Hoặc có thể đến các cơ sở vật lý trị liệu hoặc phòng khám Đông y để xoa bóp, bấm huyệt, châm cứu.
Thuốc thường dùng trong điều trị hội chứng đau vai gáy bao gồm thuốc giảm đau chống viêm, phong bế thần kinh, giãn cơ và vitamin nhóm B. Tùy theo từng nguyên nhân, các bác sĩ sẽ có những phương pháp xử trí khác nhau. Nếu đã loại trừ được những nguyên nhân chèn ép, có tổn thương thì điều trị chủ yếu là dùng thuốc giảm đau thông thường, có thể bằng đường uống, bằng cao dán.
 
Người bệnh cũng có thể dùng vitamin E 400mg, ngày uống 1 viên. Ngoài ra, có thể kết hợp biện pháp xoa, ấn, gõ nhẹ nhàng vùng gáy, bả vai, cánh tay. Tuy nhiên, người bệnh cũng cần phải nhớ rằng, không được xoa bóp bấm huyệt hoặc tập vận động trong giai đoạn cấp tính. Một số trường hợp người bệnh cần được điều trị bằng phẫu thuật: thoát vị đĩa đệm, trượt đốt sống, vẹo cột sống...
Nên tập luyện để phòng tránh
Để phòng đau cổ, vai, cần ngồi, đứng, ngủ sinh hoạt... đúng tư thế. Không làm việc quá lâu tại bàn giấy, đặc biệt với máy vi tính, thỉnh thoảng nên dừng lại để thực hiện các động tác vận động cột sống cổ, vai và tay. Cần giữ cổ luôn thẳng, tránh sai tư thế khi ngồi học, đọc sách hoặc đánh máy, không cúi gập cổ quá lâu; không nằm gối đầu cao để đọc sách hay xem tivi sẽ làm sai tư thế của cột sống cổ. Nên gối đầu thấp khi ngủ, tốt nhất gối chỉ nên cao khoảng 10cm. Khi xem tivi nên tựa lưng vào đệm, đầu hơi ngửa ra sau thành ghế, cổ tựa vào một điểm.
Không nên bẻ khớp cổ, cánh tay, vai kêu răng rắc. Nhiều người cho rằng làm thế sẽ đỡ nhức mỏi nhưng thực tế lại gây tác dụng hoàn toàn trái ngược, bởi nếu đĩa đệm đã bị thoái hóa gây mỏi cổ, khi bẻ hoặc vặn sẽ tạo đà cho đĩa đệm thoát vị ra ngoài và làm bệnh thêm trầm trọng; Khi bị đau vai, gáy nên nghỉ ngơi, hạn chế vận động ít ngày, bổ sung một số khoáng chất cho cơ thể như canxi, kali và các vitamin C, B, E; tắm nước ấm, xoa bóp giúp giãn cơ chỗ đau, tăng cường lưu thông trong cơ thể.
Ngoài ra, người bệnh nên thường xuyên luyện tập thể dục thể thao với các bài tập phù hợp; vận động, nghỉ ngơi, giải lao giữa giờ làm việc, nên giải lao khi phải ngồi kéo dài; tránh căng thẳng; luyện tập các động tác dưỡng sinh, kéo giãn cơ thể như ưỡn cổ, cúi đầu về phía trước, ngửa đầu ra phía sau, nghiêng đầu sang trái, sang phải, xoay tròn đầu và cổ, cử động cổ lên xuống... thường xuyên sẽ phòng và làm giảm các triệu chứng của bệnh.

Theo BS. Đỗ Hoàng Lan  - Sức khỏe & Đời sống

Biến chứng xương khớp ở bệnh nhân đái tháo đường

Đái tháo đường có nhiều biến chứng trong đó có biến chứng ở hệ xương khớp. Đây là một trong những biến chứng gây ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng sống của người bệnh.

Tuy nhiên, hiện nay nhiều bệnh nhân chưa thực sự được quan tâm đúng mức.
Bệnh tiến triển âm thầm
Bệnh đái tháo đường góp phần thúc đẩy bệnh ở hệ xương khớp xuất hiện sớm hơn, nặng hơn hoặc tiến triển nhanh hơn. Bệnh thường tiến triển âm thầm, lúc đầu người bệnh chỉ có cảm giác khó khăn khi co duỗi ngón tay cho đến khi ngón tay hoàn toàn cong gập và đau buốt. Tổn thương gây xơ hóa và co rút cũng có thể xảy ra ở bàn chân và thể hang bộ phận sinh dục nam. Mặt khác mật độ xương của bệnh nhân đái tháo đường thường thấp hơn người bình thường từ 20% - 30%. Do vậy, các bệnh lý về khớp cũng khiến cho bệnh nhân đau đớn và dễ gãy nếu chăm sóc không tốt.
Biến chứng xương khớp ở bệnh nhân đái tháo đường 1
Hội chứng bàn tay cứng hay gặp ở bệnh nhân đái tháo đường
Biến chứng ở gân cơ
- Hội chứng ống cổ tay, ống cổ chân: Người bệnh có triệu chứng tê rần ở bàn tay hoặc bàn chân. Cảm giác tê càng tăng lên khi bệnh nhân đứng trong một số tư thế như: buông thõng tay (hay chân), gập vùng cổ tay, cổ chân trong nhiều giờ liền. Đau tăng lên khi bệnh nhân phải gấp duỗi cổ tay như cầm sách, báo, đánh máy chữ, lái xe, sử dụng dao, đũa... Ở một số trường hợp khiến cho bệnh nhân mất ngủ, bồn chồn, mệt mỏi, suy nhược. Hội chứng này gặp trong 20% bệnh nhân mắc đái tháo đường.
- Hội chứng bàn tay cứng, hay hội chứng hạn chế vận động khớp với biểu hiện da tay bị dày lên, xơ cứng gần giống như bệnh xơ cứng bì. Hạn chế vận động khớp biểu hiện bằng các ngón tay không thể gấp và duỗi hết tầm vận động bình thường, xơ hóa các bao gân duỗi và gấp ngón tay. Ở mức độ nặng hơn, bệnh nhân không thể áp sát 2 lòng bàn tay vào nhau. Hội chứng này gặp khoảng 1/3 bệnh nhân đái tháo đường týp 1.
- Hội chứng Duputren là do tình trạng xơ hóa, co rút, dày lên của cân cơ gan bàn tay với biểu hiện bằng sự co rút của ngón tay, thường gặp ở ngón đeo nhẫn nhưng có khi lan rộng sang tận ngón trỏ. Hội chứng này thường gặp ở 25% bệnh nhân mắc bệnh đái tháo đường.
- Hội chứng ngón tay lò xo do viêm bao gân gấp ngón tay là một biến chứng khá thường gặp. Bệnh nhân có cảm giác ngón tay như bị khóa cứng lại không thể duỗi ra bình thường được mà phải cố gắng bật mạnh ra, hoặc lấy ngón tay khác bẻ ra. Ngón tay bị co gấp như hình cò súng.
Biến chứng ở khớp và tổ chức quanh khớp
Bệnh nhân đái tháo đường cũng thường bị viêm đau các khớp, thường gặp nhất là khớp vai và bao quanh khớp vai. Trong đó có hội chứng khớp vai đông cứng hay co rút khớp vai với biểu hiện gần như hoàn toàn sự vận động của khớp vai, nhất là các động tác dạng và xoay vai. Người bệnh sẽ có triệu chứng đau nhẹ và không tương xứng khiến cho bệnh nhân hạn chế vận động. Đây là hội chứng thường gặp khoảng 20% bệnh nhân đái tháo đường. 
Tiếp theo là hội chứng vai tay hay hội chứng đau loạn dưỡng thần kinh phản xạ (hội chứng Sudeck) có thể gặp và thường phối hợp với hội chứng đông cứng khớp vai. Người bệnh đau lan tỏa từ trên vai lan xuống đến bàn, ngón tay, đau rất nhiều kèm theo rối loạn vận mạch (tay sưng phù, da đỏ, tím...) và thiểu dưỡng cơ, teo cơ nếu ở giai đoạn muộn. Ngoài ra, viêm điểm bám gân vôi hóa cũng hay gặp, tỷ lệ bệnh gấp 3 lần người bình thường không mắc đái tháo đường với biểu hiện bằng đau vai rất đột ngột, dữ dội, hạn chế vận động khớp nhiều.
Về phòng bệnh
Do đái tháo đường là căn bệnh mạn tính, không thể điều trị khỏi hoàn toàn nên người bệnh phải sống chung. Muốn giảm thiểu biến chứng, người bệnh phải tuân thủ quá trình điều trị phù hợp với điều kiện của bản thân. Theo dõi và kiểm soát đường huyết ở ngưỡng tối ưu nhất thông qua chế độ ăn uống cân bằng và khoa học.
Bệnh nhân cần duy trì cuộc sống vận động, tập luyện để kiểm soát đường huyết và cân nặng hợp lý nhất.
Thường xuyên kiểm tra sức khỏe để tầm soát bệnh và phát hiện sớm những biến chứng sớm nhất. Khi có các triệu chứng như sưng, đau, mất cảm giác hay tê bì, thay đổi màu da bất thường, có vết thương bàn chân, giảm hoặc mất khả năng cử động một chi cần đến bác sĩ để có hướng điều trị thích hợp.
Cần từ bỏ các thói quen có hại trong ăn uống, sinh hoạt, lối sống như: ăn đồ ngọt, làm quá sức hoặc quá lười, vệ sinh kém, uống rượu, hút thuốc…

Theo BS Nguyễn Hồng - Sức khỏe & Đời sống

Chế độ dinh dưỡng cho bệnh Gout

Bệnh gout là do nồng độ acid uric trong máu cao, sinh ra viêm sưng khớp. Chế độ ăn uống là nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng tới sự phát triển hay ổn định của bệnh.


Chế độ dinh dưỡng cho bệnh Gout
Dinh dưỡng cho người bị bệnh Gout là một trong những yếu tố hết sức quan trọng
trong điều trị bệnh
 
Trong khoảng 30 năm trở lại đây, rất nhiều người đặc biệt là nam giới mắc phải bệnh mà người ta hay gọi là "bệnh nhà giàu" - bệnh Gout. Trong cả nguyên nhân cũng như cách điều trị việc ăn uống đóng góp một vai trò vô cùng quan trọng. Ăn uống như thế nào để có thể dễ dẫn tới bệnh Gout và làm thế nào để có thể phòng tránh được căn bệnh này.
Ths, Bs Doãn Thị Tường Vi, Khoa Dinh dưỡng bệnh viện 198 đã có cuộc trò chuyện với chương trình, đã đưa ra những tư vấn liên quan tới bệnh Gout và những lưu ý dinh dưỡng đối với bệnh nhân bị bệnh Gout.
Gout là bệnh lý được biết đến lâu đời nhất của loài người, trước đây được xem như bệnh của "vua chúa" vì thường xuất hiện ở những người giàu sang với những đồ ăn thức uống của nhà giàu. Ngày nay, đây là ảnh hưởng của rối loạn phức tạp ảnh hưởng đến mọi người, không chỉ riêng người giàu.
Nguyên nhân dẫn tới bệnh Gout là do nồng độ acid uric trong máu tăng cao. Đối với người không mắc bệnh, acid uric thường phân hủy trong máu và được thải ra ngoài qua thận để ra nước tiểu. Đối với những người bị bệnh Gout, cơ thể tạo ra quá nhiều acid uric hoặc thải acid uric qua nước tiểu quá ít. Từ việc không đào thải được acid uric, khiến acid uric trong máu tăng lên, tích lũy dần và lắng đọng thành những tinh thể sắc nhọn hình kim tại các khớp hoặc các bao quanh khớp gây ra triệu chứng đau khớp, viêm sưng khớp.
Gout được xếp vào bệnh của thời đại văn minh, thường gây đau đớn dai dẳng cho người bệnh và là báo hiệu của nguy cơ bệnh mạch vành, tai biến mạch máu não và bệnh thân.

Nguyên nhân ăn uống là yếu tố thúc đẩy bệnh phát sinh, cũng như làm tăng quá trình tái phát bệnh, do trong quá trình sử dụng thực phẩm có nhiều nhân purin, khi purin chuyển hóa sẽ tạo ra axit uric. Acid uric lắng đọng ở các thận gây sỏi thận, sỏi đường tiết niệu, gây tắc nghẽn và dễ nhiễm trùng, có bệnh nhân có nguy cơ tử vong từ hậu quả của những nhiễm trùng đó.
Bệnh Gout nằm trong hội chứng chuyển hóa thừa cân, béo phì, rối loạn mỡ máu, tăng huyết áp, đái tháo đường… Các bệnh phối hợp lại với nhau, không những gây nên bệnh về khớp về thận, làm cho bệnh cảnh với nhiều biến chứng trầm trọng hơn.
Khi bị bệnh Gout, người bệnh không nên ăn nhiều những thực phẩm tạo ra nhiều axit uric, do đó những thực phẩm nhiều nhân purin khi ăn vào sẽ tạo ra nhiều acid uric. Những thực phẩm thường nên dùng là ngũ cốc, khoai củ, trứng, sữa, phomat, lạc, các loại rau củ không chua.
Có thể dùng thêm các loại thịt cá, tôm cua có thể dùng nhưng lượng vừa phải. Các loại thịt không nên ăn thịt trắng, không nên sử dụng các loại thịt đỏ như thịt thú rừng, thịt bò, tôm cua hải sản quá chứa nhiều nhân purin. Những loại nội tạng động vật, cá Trích, cá đóng hộp cũng nên thận trọng khi sử dụng. Những đô uống như bia rượu, nước trà, cà phê… cần dùng ở mức độ vừa phải, không nên quá lạm dụng.
Khi bị bệnh, người bị ăn các loại quả chua, uống những nước quả chua như bưởi chua, khế chua chúng ta cũng cần nên hạn chế, do môi trường acid đó làm tăng sự lắng đọng acid uric.
Nhằm tăng sự đào thải acid uric, người mắc bệnh Gout cần uống từ 1 lít - 2.5 lít nước khoáng. Nếu bệnh nhân không có bệnh về tim mạch, cần khuyến khích bệnh nhân nên uống các loại nước khoáng kiềm để đào thải acid uric.
Sau đây là những lưu ý trong chế độ dinh dưỡng đối với người mắc bệnh Gout:
Hạn chế:
- Hạn chế các loại thức ăn có nhiều nhân purin như: thịt, cá nạc, hải sản, gia cẩm.
- Hạn chế các loại phủ tạng động vật như gan, bầu dục, óc, lòng, dồi lợn.
- Hạn chế các loại rau quả có vị chua.
- Hạn chế các loại thức uống có nhiều nhân purin như: rượu, bia, chè, cà phê.
Nên:
- Uống nhiều nước, uống các loại nước khoáng kiềm.
- Ăn các loại rau quả có tính chất lợi tiểu để tránh acid uric ứ đọng lại trong cơ thể.
- Trong đợt Gout cấp có thể dùng trứng, sữa, phomat, các loại hạt.
Lưu ý:
- Những bệnh nhân có cholesterol trong máu cao không nên dùng quá 2 quả trứng/ 1 tuần.
- Chất tinh bột sử dụng bằng gạo, mì, khoai.
- Chất béo sử dụng bằng bơ, dầu thực vật.

Theo VTV News/ SKDD

Cứng khớp, triệu chứng không thể coi thường

Viêm khớp dạng thấp thường gặp ở các khớp nhỏ bàn tay và bàn chân, dễ dẫn đến tàn phế, có thể gây tổn thương tim, phổi, da, mắt.

Viêm khớp dạng thấp (Rheumatoid Arthritis) là nguyên nhân hàng đầu trong nhóm bệnh lý khớp viêm gây tàn phế, mất khả năng vận động và tăng nguy cơ tử vong.Cho tới hiện nay, viêm khớp dạng thấp vẫn là một thách thức cho y học. Sự thách thức xuất phát từ tính đa dạng của bệnh trong biểu hiện lâm sàng. Tuy nhiên, với sự phát triển của công nghệ sinh học, đã có những tiến bộ đột phá trong chẩn đoán, điều trị giúp ngăn chặn hoặc ít nhất là làm chậm sự tiến triển của bệnh.
Đây là bệnh lý viêm mạn tính, ảnh hưởng toàn thân, đặc biệt là gây viêm khớp, biểu hiện sưng, nóng, đỏ, cứng khớp và giới hạn cử động. Bất kỳ khớp nào cũng có thể bị ảnh hưởng, nhưng thường gặp nhất là các khớp nhỏ ở bàn tay và bàn chân. Ngoài khớp, các cơ quan khác cũng có thể bị tổn thương như tim, phổi, da, mắt.
Cứng khớp buổi sáng là triệu chứng thường gặp trong viêm khớp dạng thấp, có thể kéo dài trên 1 giờ. Một số bệnh lý khác cũng có thể gây cứng khớp buổi sáng như thoái hóa khớp, nhưng thường không kéo dài như viêm khớp dạng thấp, mà chỉ khoảng dưới 30 phút.
Tổn thương khớp đặc trưng của viêm khớp dạng thấplà viêm màng hoạt dịch, phá hủy sụn và bào mòn xương dưới sụn, gây hủy hoại khớp không hồi phục dẫn đến mất chức năng vận động.
Cần thiết phải có ý kiến của bác sĩ chuyên khoa để có được chẩn đoán chính xác viêm khớp dạng thấp và có kế hoạch điều trị phù hợp.
Cần thiết phải có ý kiến của bác sĩ chuyên khoa để có được chẩn đoán chính xác viêm khớp dạng thấp và có kế hoạch điều trị phù hợp. Ảnh: viemkhop
Nguyên nhân của viêm khớp dạng thấp
Hệ thống miễn dịch của cơ thể chúng ta gồm nhiều loại tế bào khác nhau giúp cơ thể chống lại các tác nhân gây hại như virus, vi khuẩn, nấm... Ở những bệnh nhân viêm khớp dạng thấp, hệ thống miễn dịch hoạt động quá mức, tự tấn công, chống lại các tế bào và các cơ quan của cơ thể, dẫn tới các biểu hiện của bệnh. Do đặc điểm này, viêm khớp dạng thấpđược xếp vào nhóm bệnh tự miễn.
Chính xác nguyên nhân nào khiến hệ miễn dịch rối loạn vẫn chưa được biết rõ, tuy nhiên có liên quan đến yếu tốmôi trường và di truyền, chẳng hạn một số vi trùng, hoặc virus (Epstein-Barr virus, cytomegalovirus, parvovirus, và rubella virus). Vai trò của di truyềnthể hiện qua các cặp sinh đôi đồng trứng có tỉ lệ cùng mắc bệnh viêm khớp dạng thấpcao hơn so với các cặp sinh đôi khác trứng, đồng thời có mối tương quan giữa viêm khớp dạng thấpvới các gen HLA-DR4, HLA-DR1.
Đối tượng dễ bị viêm khớp dạng thấp
Khoảng 0,5% đến 1,5% dân số trên thế giới bị viêm khớp dạng thấp. Viêm khớp dạng thấp có thể xảy ra ở tất cả các chủng tộc và tất cả các lứa tuổi, tuy nhiên lứa tuổi thường bị bệnh nhiều nhất là 30 - 50. Nữ có nguy cơ mắc bệnh cao hơn nam gấp 2 tới 3 lần.
Biểu hiện của viêm khớp dạng thấp
Viêm khớp dạng thấp có khi khó phát hiện vì bệnh có thể bắt đầu bằng những triệu chứng mơ hồ, như đau nhức khớp hoặc cứng khớp vào buổi sáng. Tuy nhiên, nhiều bệnh viêm khớp khác cũng có thể có triệu chứng tương tự. Vì vậy, khi thấy có một trong các triệu chứng sau đây cần nhanh chóng đến một trung tâm y tế chuyên khoa để được thăm khám và thực hiện một số xét nghiệm cần thiết:
- Cứng khớp thường xuyên vào buổi sáng
- Đau khớp dai dẳng
- Đau khớp nặng thêm theo thời gian
- Khớp sưng, đỏ, nóng và đau khi va chạm
- Đau khớp có kèm sốt
- Biểu hiện trên nhiều khớp, đối xứng
- Đau khớp, mệt mỏi, đôi khi sốt như cúm làm hạn chế vận động, hoạt động hàng ngày.
Không thể chẩn đoán viêm khớp dạng thấp dựa trên một triệu chứng lâm sàng, hoặc một kết quả xét nghiệm mà phải là tổng hợp của tất cả các yếu tố đã nêu trên. Vì vậy cần thiết phải có ý kiến của bác sĩ chuyên khoa để có được chẩn đoán chính xác viêm khớp dạng thấpvà có kế hoạch điều trị phù hợp.
Do viêm khớp dạng thấp là một bệnh tự miễn, nên chưa có phương pháp điều trị khỏi hoàn toàn. Việc điều trị thường sẽ kéo dài. Tuy nhiên điều trị viêm khớp dạng thấp đã tiến bộ rất nhiều trong 30 năm qua. Điều trị hiện nay giúp hầu hết bệnh nhân cải thiện được triệu chứng và duy trì chức năng vận động. Nhưng để đạt được mục tiêu này, cần thiết phải bắt đầu điều trị nội khoa thích hợp càng sớm càng tốt, trước khi quá trình hủy hoại khớp không hồi phục xảy ra.
Không nên dùng thuốc corticoid một cách tuỳ tiện. Cần có ý kiến của bác sĩ chuyên khoa khớp để xác định chẩn đoán, tư vấn và có kế hoạch điều trị, theo dõi thích hợp nhất. Không có biện pháp điều trị duy nhất nào hiệu quả cho tất cả các bệnh nhân viêm khớp dạng thấp, đa số các trường hợp đều phải thay đổi điều trị nhiều lần trong suốt quá trình trị bệnh và nên tái khám định kỳ.
Nên điều trị sớm. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng những người được điều trị sớm sẽ tốt hơn trong dự hậu và có nhiều khả năng để sống một cuộc sống tích cực. Họ cũng giảm thiểu được tối đa nguy cơ bị các loại tổn thương khớp dẫn đến giảm hoặc mất khả năng vận động.
Bên cạnh sử dụng thuốc, chế độ ăn uống và vận động thể lực thích hợp cũng đóng vai trò quan trọng trong việc điều trị viêm khớp dạng thấp. Những chế độ ăn uống cân bằng, giảm chất béo bão hòa, giàu omega-3... sẽ giúp ích cho bệnh nhân.
Các hoạt động thể lực luyện tập thường xuyên với cường độ thích hợp giúp cải thiện chất lượng sống cũng như chức năng cơ bắp của bệnh nhân viêm khớp dạng thấp, như đi bộ, leo cầu thang, nhảy dây, bơi lội, đạp xe đạp...Đồng thời cần tránh các hoạt động thể lực nặng, các hoạt động gây áp lực mạnh lên các khớp, hoặc nâng các vật nặng. Tuy nhiên bệnh nhân cần được nghỉ ngơi, giảm vận động khi vào đợt viêm cấp. Nên tham khảo ý kiến bác sĩ chuyên ngành khi muốn bắt đầu hoặc thay đổi quá trình luyện tập.

Theo Ths.BS Hồ Phạm Thục Lan - VnExpress

Bệnh gút và những biến chứng

Trong khi bệnh gút ngày càng gia tăng, việc điều trị bệnh lại ít có hiệu quả. Nghịch lý này được nhiều người quan tâm, đặc biệt là cộng đồng bệnh nhân gút.

Theo định nghĩa mới nhất của Hiệp hội chống các bệnh thấp khớp châu Âu: "Gút là bệnh lắng đọng tinh thể muối urate natri trong cơ thể". Người bị bệnh gút thường xuyên tích lũy các tinh thể muối urat natri trong cơ thể. Những tinh thể urat này gây tổn thương tổ chức tại những nơi nó lắng đọng, dẫn đến những biến chứng nguy hiểm cho người bệnh.
h1.jpg
Một số vị trí kết tủa của tinh thể muối urate
Từ trước đến nay, chúng ta (kể cả thầy thuốc và bệnh nhân) khi nói đến bệnh gút thường chỉ quan tâm đến acid uric máu và những cơn viêm khớp cấp, mà ít khi đề cập đến các biến chứng của bệnh. Bản thân người bệnh do chưa có kiến thức đầy đủ về bệnh nên thường chủ quan, không quyết tâm kiên trì điều trị. Kết quả là việc điều trị bệnh gút tưởng như dễ nhưng rất ít người bệnh được điều trị một cách có hiệu quả. Nhiều trường hợp bệnh nhân khi đến Viện Gút đã kháng trị với các biện pháp điều trị thông thường.
Ở bệnh nhân gút, tinh thể urat natri lắng đọng ở đâu sẽ gây tổn thương ở đó. Khớp, thận, phần mềm quanh khớp, tim, mạch máu… là những nơi hay phát hiện thấy tinh thể muối urat natri. Nếu không điều trị kịp thời và đúng cách, theo thời gian, tổn thương ngày càng nhiều và gây ra những hậu quả nặng nề.
Khi lắng đọng ở khớp, tinh thể urat natri gây viêm màng hoạt dịch, viêm hoạt dịch, phá hủy sụn khớp, tiêu đầu xương, làm cho khớp bị thoái hóa dần. Sự tiến triển của thoái hóa khớp sẽ dẫn đến mất khả năng vận động khớp. Nhiều khớp bị thoái hóa sẽ dẫn đến tàn phế. Thoái hóa khớp là hậu quả tất yếu của bệnh gút.
Khi tinh thể urat tích tụ nhiều quanh khớp sẽ tạo nên các khối gọi là tophi. Tophi cùng với thoái hóa khớp sẽ gây biến dạng khớp, cản trở hoạt động của khớp. Tophi chèn ép mạch máu và thần kinh, gây các bệnh lý mạch máu và thần kinh ngoại biên. Tophi có thể bị vỡ, rò urat khó liền, dễ bị nhiễm trùng. Có trường hợp đã phải cắt cụt chi.
Tinh thể urat natri lắng đọng ở các ống thận sẽ gây viêm kẽ thận, làm tắc các ống thận. Khi lắng đọng ở xoang thận có thể tạo thành sỏi thận. Viêm kẽ và tắc ống thận tất yếu sẽ dẫn đến suy thận. Thận hoạt động bù trừ tốt, nên suy thận thường âm thầm tiến triển trong một thời gian dài, mà không có biểu hiện triệu chứng sớm như thoái hóa khớp. Khi suy thận đã rõ rệt, tiên lượng trở lên nghiêm trọng. Việc điều trị suy thận ở giai đoạn muộn ít có hiệu quả, người bệnh có thể tử vong do suy thận.
h2.jpg
Điều trị lành vết loét do tophi vỡ
Nhiều phát hiện thấy tinh thể urat gây viêm màng trong tim và cơ tim, tổn thương van tim có thể nguy hiểm đến tính mạng bệnh nhân. Tinh thể urat có thể lắng đọng ở những mảng xơ vữa trong lòng mạch, gây ra những tổn thương phát triển ở mạch máu làm giảm lưu thông máu, có thể gây tắc mạch, nhất là ở mạch vành của tim dễ gây tai biến tim mạch nguy hiểm.
Vì vậy, gút là một bệnh nguy hiểm, có thể gây nhiều biến chứng và hủy hoại dần cơ thể người bệnh. Phát hiện và điều trị sớm bệnh gút sẽ mang lại nhiều lợi ích cho người bệnh. Mục tiêu cơ bản trong điều trị bệnh gút là phải làm tan các tinh thể muối urate đã lắng đọng và ngăn không cho urate tiếp tục kết tủa. Với bệnh nhân đã có biến chứng hoặc có các bệnh lý đi kèm, cần phải tích cực điều trị các tổn thương trên người bệnh.
Hiểu được yêu cầu điều trị, với phương pháp điều trị toàn diện, an toàn bằng thảo dược tác động trực tiếp vào tinh thể muối urate natri, Viện Gút TP HCM đã điều trị thành công cho hàng nghìn bệnh nhân gút đã biến chứng, trong đó có những bệnh nhân gút biến chứng đặc biệt nặng. Sau một thời gian điều trị tại đây, bệnh nhân gút đều dần giảm các cơn đau khớp gút cấp, nhiều bệnh nhân có các u cục tophi đã nhỏ lại và tiêu hết. Những tổn thương do biến chứng được phục hồi và các bệnh lý đi kèm cũng ổn định dần. Những thành công này đã mở ra một tương lai tươi sáng cho cộng đồng bệnh nhân gút ở Việt Nam và trên thế giới.

Cách phòng ngừa đau lưng

Đau lưng là bệnh rất thường gặp, nhất là ở người trung niên và người cao tuổi. Bệnh lý đau lưng có hai nhóm: nhóm xác định được nguyên nhân và nhóm không rõ nguyên nhân.

Vận động sai tư thế dẫn đến đau lưng
Vận động sai tư thế dẫn đến đau lưng
 
Đau lưng không rõ nguyên nhân thường xảy ra ở những người có thói quen không tốt như tư thế làm việc không đúng: luôn phải làm việc ở tư thế khom lưng, ngồi cúi người về phía trước, tư thế khi ngủ không ngay ngắn, hoặc cố sức khuân vác các vật nặng...
Những trường hợp này xảy ra từ từ và gây đau lưng mãn tính. Đau lưng tìm được nguyên nhân thường thấy nhất là do thoái hóa cột sống hoặc gai cột sống hay thoát vị đĩa đệm.
Đau lưng là bệnh gây cho người bệnh không ít phiền toái vì rất khó khăn trong việc di chuyển, thay đổi tư thế, từ đó làm ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống và hiệu quả lao động.
Để phòng ngừa đau lưng, trong lao động cũng như trong sinh hoạt hằng ngày chúng ta cần phải tạo cho mình tư thế làm việc, kể cả trong khi nằm ngủ, sao cho hợp lý. Đối với những người làm công việc văn phòng cần thường xuyên thay đổi tư thế làm việc, thực hiện những động tác thể dục nhẹ nhàng như vươn vai giữa giờ chẳng hạn. Trong sinh hoạt và lao động hằng ngày, có không ít người thường có thói quen rụt cổ, khom lưng, những tư thế này vô tình tạo cho một số cơ bắp bị đặt trong trạng thái co rút kéo dài dẫn đến mệt mỏi cơ và tất nhiên cơ bắp sẽ bị tổn thương.
Khi ngủ tốt nhất là chúng ta nên nằm nghiêng hoặc nằm ngửa, tuy nhiên cũng cần phải có sự thay đổi tư thế nhằm làm cho máu huyết trong cơ thể lưu thông được dễ dàng hơn, thuận tiện hơn, các bắp cơ không bị chèn ép.
Nếu như tính chất của công việc bắt buộc phải thực hiện trong tư thế không tốt thì sau khi nghỉ giữa giờ cần có thời gian nghỉ ngơi, thư giãn và có thể tạo ra một số động tác ngược với tư thế làm việc nhằm làm cân bằng cho cơ thể, như: người làm việc phải thường xuyên khom lưng thì nên duỗi thẳng lưng, người làm việc xoay hướng bên phải thì trong lúc nghỉ nên làm động tác xoay hướng về bên trái.
Trong khi thực hiện những động tác như thế, chúng ta nên thực hiện từ từ, không được thay đổi đột ngột. Trong quá trình lao động nếu xảy ra tình trạng "cụp xương sống" cũng có thể làm động tác xoay lưng nhẹ nhàng trong phạm vi có thể, nếu thấy đau nhiều tốt nhất nên đến bác sĩ khám và điều trị, không nên xoa nắn lưng bằng các loại cồn xoa bóp một cách tùy tiện.
Các loại thuốc giảm đau đang được sử dụng trên thị trường hiện nay tỏ ra có hiệu quả trong việc điều trị đau lưng nhưng hầu hết đều có chống chỉ định. Cần chú ý, trong việc phòng ngừa đau lưng thì uống thuốc không phải là phương pháp tốt, đừng nên quá lạm dụng nó.
Vận động liệu pháp là một phương pháp phòng ngừa đau lưng rất tốt, rất cần tập đi bộ và tốt nhất là tập đi lùi. Tuy nhiên, khi tập luyện cần phải chọn nơi bằng phẳng, rộng rãi, nên tập ở những nơi có nhiều người cùng tập luyện, trong quá trình tập luyện luôn đòi hỏi phải có sự kiên trì và phải tập trong một thời gian dài. Mức độ và thời gian tập luyện còn tùy thuộc tình trạng sức khỏe của mỗi người, cần tiến hành tuần tự từ thấp đến cao, từ ít đến nhiều, không nên ép sức hay cố kéo dài thời gian để thực hiện những động tác quá sức chịu đựng của bản thân.
 

Theo BS Hồ Văn Cưng - Tuổi trẻ

Lưng luôn thẳng thì đời mới vui

Thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng tuy không làm chết người nhưng có thể gây đau và tàn phế, ảnh hưởng đến sinh hoạt, lao động và giao tiếp xã hội.


Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thoát vị đĩa đệm cột sống vùng thắt lưng như lao động nặng lâu ngày, nhấc một vật nặng quá đột ngột và sai tư thế, gây tác động mạnh đến vòng xơ bao quanh đĩa đệm (khi vòng xơ bị vỡ, nhân đệm lồi ra sau chèn ép rễ thần kinh); cũng có khi nhân nhày chui qua các khe hở dây chằng dọc sau vào trong ống sống, chèn ép rễ thần kinh và chùm đuôi ngựa làm rối loạn vận động và cảm giác, đôi khi ảnh hưởng đến cơ vòng gây tiểu khó, triệu chứng thường gặp trong các thoát vị đĩa đệm chui vào trong ống sống chèn ép chùm đuôi ngựa như một giả u (trường hợp này phải mổ cấp cứu).
Chẩn đoán
Trong toàn bộ cột sống, thoát vị đĩa đệm vùng thắt lưng chiếm vị trí hàng đầu, kế đến là vùng cổ. Thoát vị đĩa đệm cột sống vùng thắt lưng, thường gặp nhất là L4-L5 và L5-S1. Đau rễ thần kinh L4, L5 và S1 thường do thoát vị đĩa đệm vùng thắt lưng. Ngoài ra, cũng có một số trường hợp đau các rễ L4, L5 và S1 do hẹp ống sống, điều này có thể chứng minh rõ trên cộng hưởng từ (MRI).
 
Đa số những trường hợp này do lỗ thần kinh bị hẹp chèn ép rễ thần kinh L4, L5 hoặc S1, lỗ thần kinh hẹp thường do phì đại mặt khớp trên, dày dây chằng vàng, đôi khi có lồi nhẹ đĩa đệm hoặc có chồi xương, thường liên quan đến những bệnh nhân thoái hoá cột sống trong nhiều năm. Nói chung, khi có đau vùng thắt lưng lan xuống hai chân hoặc một chân, đôi khi kèm theo tê hoặc không tê chân thì nên làm cộng hưởng từ (MRI) để chẩn đoán chính xác, rồi từ đó thầy thuốc chuyên khoa tư vấn phương pháp điều trị hợp lý nhất.
Khi nào cần phẫu thuật?
Điều trị thoát vị đĩa đệm vùng thắt lưng không phải lúc nào cũng áp dụng phương pháp ngoại khoa (mổ). Đa số các trường hợp phải được điều trị nội khoa (dùng thuốc) từ 3 - 4 tuần, nếu trong thời gian điều trị nội khoa đáp ứng trên 50% là có thể chấp nhận tiếp tục dùng thuốc, nhưng không nên dùng nhiều loại thuốc giảm đau ảnh hưởng đến bao tử và giữ nước làm cho người trở nên mập. Ngoại khoa chỉ được chỉ định sau khi điều trị thuốc không hiệu quả.
Quyết định can thiệp phẫu thuật phải dựa vào hai yếu tố chính: trên lâm sàng có dấu hiệu đau rễ thần kinh điển hình; cộng hưởng từ (MRI) có dấu hiệu rõ ràng của thoát vị đĩa đệm. Các chỉ định phẫu thuật trong trường hợp thoát vị đĩa đệm thắt lưng bao gồm: thoát vị đĩa đệm thắt lưng kèm đau rễ điển hình (đau một hoặc hai chân); thoát vị đĩa đệm thắt lưng kèm teo cơ cẳng chân và tê ở bàn chân - ngón chân; nhân đệm nằm trong ống sống như một khối u; hẹp lỗ thần kinh nặng biểu hiện rõ trên cộng hưởng từ kèm đau rễ và tê chân điển hình. Cho đến nay, hai phương pháp ngoại khoa được áp dụng rất phổ biến trên thế giới để điều trị thoát vị đĩa đệm vùng thắt lưng mang lại kết quả rất tốt là vi phẫu thuật loại bỏ nhân đệm và lấy nhân đệm qua nội soi.
Phòng ngừa
Đau vùng thắt lưng xảy ra thường xuyên ở người trên 40 tuổi, khi cột sống dễ bị thoái hoá, các khối cơ dọc cột sống ở phía sau rất dễ bị kích thích làm đau vùng thắt lưng, thậm chí đau lan đến vùng lưng gây ra khó khăn trong đi lại hoặc khi nằm nghỉ, hoặc đau tăng lên khi làm việc lâu ngày hoặc ngồi lâu tại bàn làm việc.
 
Đối với những người có cột sống bị thoái hoá, dân gian thường cho là cột sống mọc gai hoặc mặt khớp của đốt sống bị viêm làm ảnh hưởng đến lao động chân tay hoặc làm việc ở văn phòng. Đôi khi những người này ngồi lâu trên bàn làm việc cũng bị đau vùng thắt lưng. Những trường hợp đau này nếu đứng dậy đi lại tới lui trong vòng 10 - 15 phút cho các cơ cạnh cột sống không bị co thắt thì cơn đau sẽ giảm và có thể tiếp tục công việc trở lại.
 
Người lớn tuổi luôn phải giữ khối cơ cạnh cột sống trong tình trạng tối ưu như căng giãn khối cơ này một cách chậm chạp và điều hoà, không có những động tác quá đột ngột làm cho khối cơ đó quá kích thích dẫn đến co thắt dữ dội gây đau. Nên tập thể dục mỗi ngày như bơi lội, đi bộ tốc độ hơi nhanh, cũng có thể chạy bộ.
 
Buổi sáng là thời gian lý tưởng nhất để vận động bởi lưng người lớn tuổi sau một đêm nằm ngủ không hoạt động thì các khối cơ cạnh cột sống trở nên cứng, đó là lý do nhiều người than phiền khi ngủ dậy không thể ngồi hay đứng lên ngay được, phải ngồi dậy và đứng lên từ từ để các khối cơ vùng thắt lưng hoạt động trở lại và mềm mại hơn (thông thường phải mất 15 - 30 phút).
 
Người ta ước tính áp lực bên trong đĩa đệm sẽ tăng 200% khi chuyển từ tư thế nằm nghiêng sang đứng, và giảm nhanh 400% khi ngồi ở ghế với tư thế thoải mái. Cho nên, biết chọn tư thế ngồi đúng và dễ chịu sẽ làm giảm áp lực trong đĩa đệm, từ đó tránh được đau lưng và gây lồi đĩa đệm.
Khi chúng ta nhấc một vật nặng, nếu để lưng và thắt lưng cong (gập lại), sau đó có thể bị đau vùng thắt lưng, thậm chí bị thoát vị đĩa đệm vùng thắt lưng. Đối với người đã bị đau vùng thắt lưng mãn tính, động tác sai tư thế như trên thậm chí có thể làm đĩa đệm chui vào trong ống sống gây chèn ép nặng rễ thần kinh và chùm đuôi ngựa, đôi khi không thể đi lại được hoặc đau dữ dội với bất cứ tư thế nào. Những trường hợp này cần phải được các thầy thuốc chuyên khoa ngoại thần kinh và cột sống tư vấn sau khi chẩn đoán xác định bằng cộng hưởng từ (MRI), phương tiện chẩn đoán chính xác loại bệnh lý này.

Theo PGS.TS.BS Võ Văn Nho - SGTT

Đau lưng coi chừng bị thoát vị đĩa đệm

Trong các nguyên nhân gây đau lưng thì thoát vị đĩa đệm là phổ biến nhất. Điều trị không đúng cách, nhiều người bị biến chứng viêm não, viêm tủy, thậm chí là liệt.

Thoát vị đĩa đệm cột sống thắt lưng là một bệnh lý thần kinh thường gặp, chiếm khoảng 45-60% số trường hợp điều trị nội trú tại các khoa thần kinh. Bệnh thường khởi phát sau một chấn thương vùng cột sống thắt lưng hoặc mang vác nặng sai tư thế.
 
Mới đầu, người bệnh thấy đau ở lưng, sau đó lan dọc xuống mông, đùi, cẳng chân, bàn chân và các ngón. Khi vận động thì đau tăng, nghỉ ngơi thì đỡ và thường lan theo đường đi của dây thần kinh hông to.
 
lung1-jpg-1364010244_500x0.jpg
Ảnh minh họa: Medicalcenter
Bệnh thường gặp ở độ tuổi 20-50, trên 70 tuổi ít gặp hơn. Bệnh hay bị nhầm với viêm dây thần kinh tọa, căng cơ và một số bệnh về cột sống khác như: thoái hóa, giãn dây chằng, lao, u...
Tùy thuộc mức độ thoát vị, chèn ép các rễ thần kinh khác nhau mà có cách điều trị khác nhau. Tuy nhiên, phần lớn người bệnh không được điều trị bởi các bác sĩ chuyên khoa thần kinh, dẫn đến hiệu quả điều trị thấp, nhiều biến chứng, liệt, thậm chí tử vong.
Lưu ý khi bị thoát vị đĩa đệm:
- Nếu đĩa đệm bị thoát vị nặng, chèn ép gây đau dữ dội thì cần phẫu thuật lấy đĩa đệm, giải phóng chèn ép. Khoảng 20-25% bệnh nhân cần phẫu thuật.
Ưu điểm của phương pháp này là giải quyết được đúng nguyên nhân bệnh, lấy đi đĩa đệm bị thoát vị chèn ép vào. Tuy nhiên nó làm cho cột sống kém bền vững và có thể có một số biến chứng sau mổ.
- Nếu thoát vị mức độ vừa phải thì điều trị nội khoa cơ bản, chiếm 70-75% các trường hợp. Quá trình điều trị phải bài bản, kết hợp đồng thời 3 liệu pháp: kéo giãn cột sống thắt lưng, tiêm thuốc ngoài màng cứng và dùng các loại thuốc, biện pháp không dùng thuốc khác.
Mục đích của kéo giãn cột sống thắt lưng nhằm làm giảm sự đè ép của cột sống lên đĩa đệm, giúp đĩa đệm có thể tự co lại một phần.
Liệu pháp tiêm ngoài màng cứng là đưa thuốc tê và các thuốc chống viêm dạng steroid vào khoang ngoài màng cứng. Từ đó, thuốc ngấm trực tiếp vào rễ thần kinh bị chèn ép, đưa lại hiệu quả chống viêm, giảm đau cao nhất với liều thuốc thấp nhất.
Bên cạnh thuốc giảm đau, thuốc giãn cơ, có thể kết hợp thêm vật lý trị liệu như: như hồng ngoại, bó nến, điện phân và các biện pháp y học cổ truyền như châm cứu, thủy châm.
Sự kết hợp tổng thể và hài hòa 3 liệu pháp điều trị trên sẽ mang lại hiệu quả phục hồi bệnh cao nhất, đạt hiệu quả tốt và khỏi bệnh đến 80-90%.
- Các biện pháp điều trị can thiệp đĩa đệm tối thiểu như laze, chọc hút đĩa đệm qua da, sinh hóa tiêu nhân..., là những biện pháp mới, còn ít được áp dụng trên lâm sàng, cần được nghiên cứu nhiều hơn.
Ngoài ra, hiện nay có nhiều thầy thuốc lang điều trị thoát vị đĩa đệm bằng cách đứng giẫm lên lưng người bệnh. Đây là một phương pháp điều trị thiếu cơ sở khoa học, đi ngược với cơ chế bệnh sinh của bệnh, do đó có thể làm bệnh trầm trọng hơn, thậm chí gây trượt đốt sống và liệt hai chân.
Các tư thế sinh hoạt, lao động (buộc cột sống vận động quá giới hạn như quá ưỡn, quá khom người, vẹo cột sống), nghỉ ngơi không đúng đều là nguyên nhân dẫn tới bệnh và làm bệnh nặng thêm. Vì vậy, để phòng ngừa người bệnh cần chú ý sửa những thói quen đi đứng không đúng, gánh vác quá nặng, xách mang lệch một bên người và lao động sai tư thế.

Theo BS.CK1 Nguyễn Văn Tuấn - VnExpress