Thứ Năm, 11 tháng 6, 2015

Làm sao để hết đau cổ - gáy?

Nhiều người sau một đêm ngủ dậy bỗng thấy đau nhức khắp mình, đặc biệt là đau tê dại vùng vai, gáy. Triệu chứng này có thể trong nhiều ngày, thậm chí trong nhiều tháng.

Đây là một triệu chứng thường gặp, xảy ra mọi lứa tuổi, mọi giới... Bệnh tăng lên khi vận động và giảm khi nghỉ ngơi. Hội chứng đau vai gáy thông thường không nguy hiểm, song có thể gây ra nhiều lo lắng, khó chịu, mệt mỏi cho người bệnh, làm giảm sút sức lao động và chất lượng cuộc sống.
Làm sao để hết đau cổ - gáy?
 
Nguyên nhân gây đau vai gáy
Nguyên nhân của các bệnh đau cổ, đau vai gáy thường gặp nhất là gối đầu cao khi ngủ hoặc kê đầu trên vật cứng một thời gian dài vài tiếng như: khi đi xe đò ngủ đầu tựa trên ghế dựa, nằm xem tivi... bệnh rất dễ xảy ra đối với người bắt đầu đến tuổi trung niên, với hệ mạch máu đã giảm tính dẻo dai, đàn hồi.
Ngoài ra nguyên nhân dẫn đến hội chứng đau cổ vai còn do tổn thương các mặt khớp của cột sống cổ như: thoái hóa cột sống cổ, thoát vị đĩa đệm cột sống cổ, vẹo cổ bẩm sinh, dị tật, viêm, chấn thương vùng cổ, ung thư, lao, u hố sau..., hoặc do công việc hàng ngày dẫn đến những chấn thương nhỏ nhưng lặp đi lặp lại nhiều lần như lái xe, sơn trần, làm việc với máy vi tính.
Bệnh hay gặp ở những người hay nằm nghiêng, co quắp, ngồi làm việc, sinh hoạt sai tư thế; khi cơ thể yếu mệt, tốc độ hoạt động của hệ tuần hoàn giảm, việc lưu thông máu và trao đổi ôxy trong cơ thể giảm cũng sẽ dễ bị đau nhức khi ngủ dậy. Đôi khi có những trường hợp hội chứng đau vai gáy xuất hiện tự phát mà không có nguyên nhân rõ rệt.
Biểu hiện của bệnh
Biểu hiện rõ nét nhất của hiện tượng tổn thương đốt sống cổ hoặc bị chèn ép dây thần kinh hoặc bị thiếu máu cục bộ đều có thể gây nên triệu chứng đau vai gáy. Đau vai gáy thường xuất hiện vào lúc sáng sớm vừa ngủ dậy hoặc ngồi làm việc ở bàn giấy nhiều thời gian như đánh máy, cúi xuống đọc văn bản hoặc sửa chữa văn bản, soạn giáo án (các thầy cô giáo) trong một thời gian dài trong một buổi hoặc trong một ngày và có thể kéo dài nhiều ngày, nhiều tuần, nhiều tháng... Nhiều trường hợp ngoài đau vai gáy còn gây mỏi ở tay, tê tay, nặng tay cho nên khi làm các động tác dùng một hoặc hai tay nâng đỡ hoặc khi lái xe (xe máy, xe ô tô) phải làm động tác đổi tay cầm lái vì tay kia bị mỏi, nặng rất khó chịu.
Làm sao để hết đau cổ - gáy?
Điều trị hội chứng cổ vai bằng bức xạ hồng ngoại.
Tùy theo từng mức độ của bệnh mà người bệnh có những biểu hiện khác nhau trong chứng bệnh này. Cơn đau có thể từ vùng gáy lan ra tai, cổ ở một bên. Mức độ đau từ ít đến nhiều có ảnh hưởng tới tư thế đầu – cổ. Cũng có thể cơn đau từ gáy lan xuống bả vai, cánh tay ở một bên hay cả ở hai bên.
Có trường hợp cơn đau bả vai cánh tay ở một bên sau một thời gian người bệnh có cảm giác tê mỏi ở tay bên đau – đây có thể là biểu hiện của rối loạn phản xạ gân xương. Cũng có những người bị đau lan sang hai bên và kèm theo cảm giác chóng mặt, hoa mắt, ù tai, đi đứng loạng choạng, khó nuốt (uống nước sặc, nghẹn), đồng thời có thể xảy ra rối loạn chức năng, liệt các dây thần kinh VIII, X, XI…
Cơn đau nhức có thể xuất hiện tự phát hoặc sau khi lao động nặng, mệt mỏi, căng thẳng, nhiễm lạnh. Đau có thể cấp tính (xuất hiện đột ngột) hoặc mạn tính (âm ỉ, kéo dài). Đau thường có tính chất cơ học: tăng khi đứng, đi, ngồi lâu, ho, hắt hơi, vận động cột sống cổ; giảm khi nghỉ ngơi. Đau cũng có thể tăng khi thời tiết thay đổi.
Để chẩn đoán nguyên nhân, người bệnh cần được thăm khám lâm sàng. Các phương tiện hỗ trợ chẩn đoán bao gồm chụp Xquang cột sống cổ, đo điện cơ và chụp cộng hưởng từ (MRI) cột sống cổ.
Nhiều trường hợp tình trạng đau vai gáy kéo dài dẫn đến người bệnh luôn cảm thấy vô cùng mệt mỏi, khó chịu, không tập trung, tư duy kém... ảnh hưởng lớn tới chất lượng sống của người bệnh.
Điều trị và dự phòng như thế nào
Nếu bệnh nhẹ, cơn đau không kéo dài, bản thân người bệnh có thể tự điều trị bớt đau bằng cách dùng cao dán hoặc dùng hai bàn tay xoa bóp, gõ, vuốt cho vùng cổ, vai, gáy nhiều lần để giảm đau. Hoặc có thể đến các cơ sở vật lý trị liệu hoặc phòng khám Đông y để xoa bóp, bấm huyệt, châm cứu.
Thuốc thường dùng trong điều trị hội chứng đau vai gáy bao gồm thuốc giảm đau chống viêm, phong bế thần kinh, giãn cơ và vitamin nhóm B. Tùy theo từng nguyên nhân, các bác sĩ sẽ có những phương pháp xử trí khác nhau. Nếu đã loại trừ được những nguyên nhân chèn ép, có tổn thương thì điều trị chủ yếu là dùng thuốc giảm đau thông thường, có thể bằng đường uống, bằng cao dán. Người bệnh cũng có thể dùng vitamin E 400mg, ngày uống 1 viên. Ngoài ra, có thể kết hợp biện pháp xoa, ấn, gõ nhẹ nhàng vùng gáy, bả vai, cánh tay. Tuy nhiên, người bệnh cũng cần phải nhớ rằng, không được xoa bóp bấm huyệt hoặc tập vận động trong giai đoạn cấp tính. Một số trường hợp người bệnh cần được điều trị bằng phẫu thuật: thoát vị đĩa đệm, trượt đốt sống, vẹo cột sống...
Nên phòng đau cổ, vai, gáy từ khi chưa có biểu hiện thương tổn bằng cách khi ngồi hay đứng đều phải đúng tư thế. Khi ngủ chỉ gối đầu cao khoảng 10cm, vừa khít với độ cong sinh lý sau gáy, phần trên của vai phải đặt ở trên gối để tránh cột sống cổ và các cơ bắp bị kéo giãn. Khi xem tivi nên tựa lưng vào đệm, đầu hơi ngửa ra sau thành ghế, cổ tựa vào một điểm phù hợp với độ cong sinh lý của cổ. Nghe điện thoại nên cầm ở tay, không nên kẹp vào vai, nếu có chỗ gác tay sẽ giảm bớt độ căng các cơ ở cổ và bả vai... Những người lao động hay phải cúi (như diễn viên xiếc, đánh máy, phi công, tài xế...) nên có những bài tập riêng hàng ngày để khôi phục lại chức năng của các dây thần kinh vai, gáy.
Khi bị đau vai, gáy nên nghỉ ngơi, hạn chế vận động ít ngày, bổ sung một số khoáng chất cho cơ thể như calci, kali và các vitamin C, B, E; tắm nước ấm, xoa bóp giúp giãn cơ chỗ đau, tăng cường lưu thông trong cơ thể.
Ngoài ra, người bệnh nên thường xuyên luyện tập thể dục thể thao với các bài tập phù hợp; vận động, nghỉ ngơi, giải lao giữa giờ làm việc, nên giải lao khi phải ngồi kéo dài; tránh căng thẳng; luyện tập các động tác dưỡng sinh, kéo giãn cơ thể như ưỡn cổ, cúi đầu về phía trước, ngửa đầu ra phía sau, nghiêng đầu sang trái, sang phải, xoay tròn đầu và cổ, cử động cổ lên xuống... thường xuyên sẽ phòng và làm giảm các triệu chứng của bệnh.
Khi đau cổ, vai, gáy không xoay, vặn mạnh vì dễ gây tổn thương nặng các dây thần kinh. Không uống thuốc tùy tiện mà phải đi khám để được bác sĩ chuyên khoa điều trị đúng.
Khi triệu chứng thuyên giảm việc luyện tập dưỡng sinh sẽ giúp chúng ta vận động khớp cổ một cách nhẹ nhàng để giảm đau và nhanh chóng phục hồi. Nhằm phòng ngừa chứng đau cổ vai, chúng ta có thể tập hai động tác dưỡng sinh: ưỡn cổ, vặn cột sống cổ ngược chiều.
Điều trị bằng phương pháp vật lý trị liệu
Các phương pháp nhiệt có tác dụng giảm đau chống co cứng cơ giãn mạch tăng cường chuyển hóa dinh dưỡng như: hồng ngoại, chườm ngải cứu, đắp Paraphin, tắm ngâm suối bùn nóng.
Các phương pháp điện trị liệu như: Sóng ngắn có tác dụng tạo nhiệt nóng ở trong sâu, tăng cường chuyển hóa, chống phù nề, chống viêm giảm đau. Dòng xung điện có tác dụng kích thích thần kinh cơ, giảm đau, tăng cường chuyển hóa. Dòng Gavanic và Faradic làm tăng cường quá trình khử cực và dẫn truyền thần kinh đưa thuốc giảm đau vào vùng tổn thương.
Laser làm mềm, giảm đau, chống viêm, tái tạo tổ chức.
Siêu âm làm mềm tổ chức tổn thương xơ sẹo trong sâu, chống viêm, giảm đau, tăng cường chuyển hóa, tăng tải tạo tổ chức.
Kéo giãn cột sống bằng hệ thống kéo giãn kỹ thuật số: Đây là phương pháp điều trị bệnh sinh thoát vị đĩa đệm/thoái hóa đĩa đệm/thoái hóa cột sống căn bản nhất vì mục đích của phương pháp là tạo ra áp lực âm ngay trong lòng đĩa đệm nhằm giải nén, tạo điều kiện cho nhân nhầy đĩa đệm chuyển dịch hướng tâm trở về vị trí ban đầu, tăng cường các chất chuyển hóa và dinh dưỡng vào trong đĩa đệm để tái tạo tổ chức.
Đa số bệnh nhân thoát vị đĩa đệm cột sống cổ điều trị bảo tồn bằng phương pháp vật lý trị liệu sẽ phục hồi từ 80- 90% sau 4 – 6 tuần trị liệu.

Những điều cần biết về viêm khớp dạng thấp

Viêm khớp dạng thấp thường gặp ở phụ nữ tuổi trung niên, diễn tiến âm ỉ trong nhiều năm nên người bệnh cần hiểu rõ về bệnh để có phương pháp điều trị đúng cách, hiệu quả.

Viêm khớp dạng thấp là dạng viêm khớp mạn tính thuộc nhóm bệnh tự miễn. Đa số trường hợp viêm khớp khởi phát từ từ và tăng dần, nhưng có khoảng 15% bắt đầu đột ngột với những triệu chứng cấp tính. Trước khi dấu hiệu ở khớp xuất hiện, bệnh nhân có thể thấy các biểu hiện như sốt nhẹ, mệt mỏi, gầy sút, tê các đầu chi, đau nhức và khó cử động khớp lúc ngủ dậy.
Khoảng 2/3 trường hợp bắt đầu bằng viêm một khớp, thường là khớp nhỏ ở bàn tay, sau lan xuống khớp gối, bàn chân, cổ chân, ngón chân… đối xứng hai bên khớp, sưng đau, hạn chế vận động, ít nóng đỏ,… Nếu không điều trị kịp thời, bệnh nhân có thể bị biến dạng khớp, mất vận động ở các khớp viêm, thậm chí dẫn tới tàn phế.
Ảnh minh hoạ
Ảnh minh hoạ

Để điều trị hiệu quả viêm khớp dạng thấp, bệnh nhân cần tuân thủ một số chú ý bao gồm:
- Kết hợp nhiều biện pháp điều trị như: dùng thuốc, vật lý trị liệu, phẫu thuật, nẹp chỉnh hình,… Không tự ý sử dụng đơn thuốc giảm đau chống viêm cũ nếu không được bác sĩ chỉ định
- Thời gian điều trị chia làm nhiều giai đoạn: nội trú, ngoại trú và tập luyện phục hồi chức năng.
- Nên có bác sĩ chuyên trách theo dõi bệnh nhân. Tái khám đúng theo lịch hẹn của bác sĩ.
- Xác định viêm khớp dạng thấp là bệnh mạn tính, việc điều trị cần kiên trì, lâu dài.
Trong điều trị, bác sĩ sẽ đưa ra phác đồ cụ thể tuỳ thuộc vào từng giai đoạn và sự tiến triển của bệnh. Hiện nay, sự ra đời của các sản phẩm thiên nhiên giúp bệnh nhân có thêm nhiều lựa chọn trong việc hỗ trợ điều trị viêm khớp dạng thấp với ưu điểm là hiệu quả bền vững, tác động vào nguyên nhân gây bệnh và an toàn khi dùng lâu dài. 

Học sinh, dân văn phòng dễ mắc bệnh cột sống cổ

Tư thế làm việc, học tập không đúng là một trong các yếu tố khiến ngày càng nhiều người bị mắc bệnh lý về cột sống cổ (CSC).

Bệnh không chỉ gặp ở người lớn mà còn có cả ở trẻ em, ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng sống, thậm chí có bệnh nhân (BN) phải nằm liệt giường.
Bệnh do đặc thù nghề nghiệp
Theo PGS-TS-BS Nguyễn Văn Thắng, chuyên khoa xương khớp, BV Chấn thương chỉnh hình TP.HCM, bệnh lý CSC có thể tạm chia thành bốn nhóm.
Trước tiên là nhóm bệnh của xương (loãng xương, xẹp đốt sống, xơ đặc tạo chồi gai…). Tiếp đến là nhóm bệnh của đĩa đệm (thoái hóa đĩa đệm, lồi đĩa đệm, thoát vị đĩa đệm). Thứ ba là nhóm bệnh lý của các cơ và dây chằng cạnh cột sống (bong gân, dày xơ hóa…). Cuối cùng là nhóm bệnh cột sống do chấn thương vùng cổ rất đa dạng, phức tạp.
Lứa tuổi bị bệnh lý CSC thường gặp từ trung niên trở đi do lúc này cơ thể giảm độ dẻo dai, cơ, xương khớp và mạch máu kém độ đàn hồi hơn. Tuy nhiên, bệnh lý CSC còn do nhiều nguyên nhân nên có thể gặp ở mọi lứa tuổi.
Các biểu hiện của bệnh lý CSC thường gặp nhất là đau ở vùng cổ, gáy, cảm giác đau nhức khó chịu, có khi đau nhói. Đau có thể lan lên mang tai, thái dương hoặc lan xuống vai, cánh tay, bàn tay. Kèm theo đau, BN có thể có hạn chế vận động của CSC.
Các nguyên nhân của bệnh lý CSC chủ yếu do tư thế làm việc không đúng, thời gian chịu đựng của CSC ở một tư thế quá lâu (ví dụ người làm tóc, sử dụng máy vi tính quá lâu không đúng tư thế…), nằm ngủ gối quá cao, vị trí ngồi xem ti vi không đúng (không đối diện với màn hình).
Ngoài ra, chế độ dinh dưỡng không phù hợp; ít vận động hoặc vận động quá nhiều CSC, dị tật, loãng xương, thoái hóa CSC (ở những người lớn tuổi), viêm, chấn thương vùng cổ cũng là nguyên nhân gây ra bệnh lý CSC.
Một số bệnh cột sống cổ có thể phòng ngừa
Bệnh lý CSC có thể trở nên nặng làm cho BN không thể tự do sinh hoạt, thậm chí bị yếu liệt tứ chi, nằm một chỗ. Tuy nhiên, BS Thắng cho rằng mọi người không nên quá lo lắng, bởi một số bệnh CSC có thể phòng ngừa, điều trị hết hoặc làm giảm quá trình diễn tiến bệnh.
Để tránh mắc các bệnh lý CSC, BS Thắng khuyên người dân cần phân phối hợp lý giữa thời gian lao động và nghỉ ngơi, không nên quá gắng sức trong công việc, hạn chế tối đa những tác động không tốt cho các đốt sống cổ.
Đối với người làm việc văn phòng, không nên ngồi liên tục quá 30 phút. Tư thế ngồi đúng, giữ cho CSC ở tư thế sinh lý (độ cao của bàn và ghế phải hợp lý), tập thể dục buổi sáng và giữa giờ đều đặn.
Khi xem ti vi, mọi người nên ngồi đối diện với màn hình, tránh ngồi lệch một bên làm CSC phải xoắn vặn. Trong lớp học, giáo viên nên đổi chỗ ngồi của học sinh từ trái qua phải và ngược lại trong hai-ba tháng/lần. Như vậy ngoài việc giúp cho cột sống không bị vẹo còn tốt cho mắt của học sinh.
BS Thắng đặc biệt cảnh báo mọi người không nên có động tác vặn bẻ cổ đột ngột khi thấy mỏi, bởi tất cả các động tác này sẽ làm tổn thương đốt sống cổ. Ngược lại lúc này chúng ta nên tập các động tác cổ nhẹ nhàng.
Việc điều trị bệnh lý CSC tùy vào từng loại bệnh và giai đoạn bệnh. Thông thường bác sĩ điều trị nội khoa (kết hợp dùng thuốc và tập luyện). Trường hợp đặc biệt mới can thiệp ngoại khoa (mổ) như: thoát vị đĩa đệm, trật khớp, gãy cột sống, chèn ép thần kinh…

Cách sơ cứu gãy xương

Cách sơ cứu gãy xương 1
Diễn tập sơ cứu người bị tai nạn.
Gãy đốt sống cổ
Chấn thương cột sống cổ thường hay gặp do tai nạn giao thông, tai nạn lao động và để lại hậu quả nặng nề cho bản thân và gia đình như liệt, tử vong.
Cách xử trí
Không được để nạn nhân cố vận động mà phải đỡ đầu và cổ nạn nhân cho đến khi cán bộ y tế đến cấp cứu. Giải phóng bệnh nhân khỏi các vật cản như mũ, xe. Trong khi chờ xe cứu thương, việc nên làm là nới rộng cổ áo và lót một vòng đệm cổ. 
Có thể tự chế vòng đệm cổ bằng cách gấp 1 tờ báo lại với bề rộng khoảng 10cm. Sau đó dùng băng tam giác gói lại hoặc nhét tờ báo đã gấp lại đó vào trong một chiếc tất dài, đặt phần giữa của vòng đệm cổ vào phía trước của cổ ngay phía dưới cằm, xé quần áo nạn nhân quấn xung quanh cho êm, tạo thành một mảng nẹp.
Quấn vòng đệm quanh cổ nạn nhân và buộc nút ở phía trước của cổ. Khi quấn phải bảo đảm chắc chắn rằng vòng đệm cổ không gây cản trở đường thở. Khi vận chuyển nạn nhân tới cơ sở y tế phải cho nạn nhân nằm, tuyệt đối không được ngồi.
Gãy xương sống (gãy cột sống)
Xương sống nâng đỡ sức nặng các phần ở bên trên cơ thể là đầu, mình và hai tay. Cột sống chạy từ đáy hộp sọ xuống tới cùng lưng, trong đó có các tế bào thần kinh, các bó sợi thần kinh kết nối tất cả các bộ phận của cơ thể với não bộ. Xương sống khớp với hộp xương sọ, xương sườn, đĩa hông và là nơi bám của các cơ lưng.
Cách xử trí
Để nạn nhân nằm yên, gấp vải, chăn để dọc sát 2 bên thân. Đỡ vai và khung chậu của nạn nhân đặt đệm mềm vào giữa 2 chân. Buộc băng hình số 8 ở quanh cổ chân và bàn chân, buộc các dải băng to ở đầu gối và đùi. Khi đưa nạn nhân tới cơ sở y tế, phải đặt nạn nhân nằm cố định trên đệm cứng với tư thế duỗi thẳng trên một mặt phẳng, vì vậy cần nhiều người nâng đỡ.
Gãy khung chậu
Khung chậu có hình thể như 1 cái chậu thắt ở giữa gồm 2 xương chậu, xương cùng và xương cụt. Vì xương chậu là xương xốp nên khi gãy gây chảy máu nhiều, dễ bị sốc, hay tổn thương đến nội tạng và gây nhiều tai biến, có thể dẫn tới tử vong.
Cách xử trí:
Đặt nạn nhân nằm ngửa, chân duỗi thẳng, dùng gối, chăn, màn mỏng kê ở dưới gối. Buộc 2 vòng băng to bản ở khung chậu, băng số 8 xung quanh mắt cá chân và bàn chân và băng 1 băng rộng bản ở đầu gối. Khuyên nạn nhân bất động, giảm đau, chống sốc và vận chuyển người bệnh nhẹ nhàng trên ván cứng về cơ sở y tế gần nhất để được điều trị.
Chấn thương cột sống lưng - thắt lưng
Đây là đoạn cột sống hay bị chấn thương nhất. Khi bị chấn thương, các đốt sống có thể bị gãy, các dây chằng đĩa đệm bị rách, đứt và vỡ. Chấn thương vùng thắt lưng có thể phối hợp với các thương tổn trong ổ bụng như chảy máu trong ổ bụng, vỡ ruột hoặc các nội tạng rỗng, tổn thương niệu quản, bàng quang, gan, lách.
Cách xử trí
Đặt nạn nhân lên một tấm ván cứng có chiều dài bằng cơ thể. Trong khi nâng nạn nhân lên cáng, cố gắng đừng để cột sống bị xoắn và gấp góc. Dùng vải buộc 2 chân bệnh nhân với nhau, buộc thân người và cố định đầu bệnh nhân vào cáng. Khi vận chuyển tới cơ sở y tế, không để bệnh nhân bị dịch chuyển, người bị nghiêng.

Đau khớp có thể là dấu hiệu bệnh gút

Gút là bệnh rối loạn chuyển hóa dẫn đến tình trạng tăng axit uric trong máu. Hậu quả của quá trình này là sự lắng đọng của tinh thể muối urat ở khớp và các mô trong cơ thể. Đa số bệnh phát sinh trong tuổi 40 đến 60, nhưng mấy năm gần đây, ngày càng có nhiều bệnh nhân ở độ tuổi 30.
sBác ĩ Hồ Phạm Thục Lan,Trưởng khoa Cơ Xương Khớp,BV Nhân Dân 115 cho biết,khi mới được phát hiện, gút được ví von là "bệnh nhà giàu" hay "bệnh của vua", vì bệnh nhân thường là người giàu có, nhưng quan điểm này rất sai lầm, vì trong thực tế, bất cứ thành phần kinh tế nào cũng mắc bệnh gút. Bệnh gây đau đớn, làm giảm hoặc mất năng suất lao động, chức năng vận động.
Hơn 90% các trường hợp gút là nguyên phát, tức không rõ nguyên nhân, 10% còn lại là thứ phát sau một số bệnh khác hoặc dùng thuốc. Bệnh thường gặp ở nam nhiều hơn nữ. Bệnh thường phát sinh sau khi sử dụng các thuốc lợi tiểu, kháng lao, aspirine... hoặc sau các bệnh suy thận, béo phì, tăng huyết áp, tiểu đường, rối loạn chuyển hoá lipid máu, bệnh ác tính cơ quan tạo máu.
Tinh thể urat trong dịch khớp qua kính hiển vi phân cực.
Tinh thể urattrong dịch khớp gây bệnh gútqua kính hiển vi phân cực
Bệnh thường khởi phát đột ngột ở một khớp, hay gặp nhất là khớp bàn ngón 1 bàn chân, khuỷu, gối, cổ chân. Đau thường về đêm, cường độ tăng nhanh trong 24-48 giờ, có thể kèm theo sốt lạnh run. Khớp bị ảnh hưởng sưng nóng đỏ rõ rệt. Không cần điều trị, bệnh kéo dài vài ngày rồi tự khỏi hoàn toàn, có thể có ngứa và bong vẩy ở da vùng khớp bị ảnh hưởng.Càng về sau đợt viêm khớp càng kéo dài, không tự khỏi, khoảng cách giữa các đợt ngày càng ngắn lại, các cơn viêm khớp xảy ra liên tiếp dần dần đưa đến gút mãn, biểu hiện bằng sự xuất hiện của nốt tophy, bản chất là sự lắng đọng của tinh thể urate ở phần mềm quanh khớp, kèm với di chứng cứng khớp, biến dạng khớp, mất chức năng vận động.
Bệnh đang có chiều hướng gia tăng nhanh trong mấy năm gần đây. Theo thống kê của khoa nội Cơ Xương Khớp BV Nhân dân 115, bệnh gút chiếm khoảng 10% các bệnh khớp điều trị tại khoa. Do đời sống kinh tế xã hội phát triển, lối sống và thói quen ăn uống của người dân những năm gần đây có chiều hướng thay đổi, chuyển từ ăn rau củ sang ăn nhiều thịt cá, thực phẩm nấu sẵn và ít vận động. Bên cạnh đó, với lý do cần gặp gỡ đối tác, rượu bia đang trở thành thức uống thông dụng, làm cho tần suất bệnh ngày càng tăng cao.
Theo BS Thục Lan, hầu hết chẩn đoán bệnh gút hiện nay tại các cơ sở y tế tại TP HCM đều dựa vào nồng độ axit uric trong máu. Tuy nhiên, không phải tất cả trường hợp tăng axit uric trong máu là bị gút. Axit uric là một sản phẩm của quá trình chuyển hóa đạm, do đó khi chúng ta ăn các loại thực phẩm có đạm đều có thể làm tăng nồng độ chất này trong máu.Tuy nhiên,không chỉ tinh thể urat trong dịch khớp mới gây ra viêm khớp cấp, các loại tinh thể canxi như calcium pyrophosphate cũng gây ra các triệu chứng giống như bệnh gút được gọi là bệnh giả gút. Điều này lý giải cho các trường hợp xét nghiệm axit uric bình thường trong máu nhưng vẫn có triệu chứng của bệnh gút.
Bác sĩ Lan nhấn mạnh, hiện nay kính hiển vi phân cực là phương pháp duy nhất có thể giúp dễ dàng phát hiện ra tinh thể urat trong dịch khớp từ đó có thể đưa ra chẩn đoán một cách chính xác nhất bệnh gút.
Một số lưu ý trong điều trị bệnh
- Cũng như những bệnh rối loạn chuyển hoá khác, khâu đầu tiên trong điều trị bệnh gút là cần thay đổi thói quen ăn uống và sinh hoạt để giảm các yếu tố nguy cơ. Hạn chế các thức ăn nhiều đạm động vật bao gồm thịt đỏ, cá, tôm cua, tim, gan, thận, óc, hột vịt lộn..., hạn chế uống rượu bia, năng vận động, giảm cân nặng.
- Cần dùng thuốc theo chỉ định của bác sĩ nhằm khống chế các đợt viêm khớp cấp, làm hạ và duy trì axit uric máu ở mức cho phép, kiểm soát tốt các bệnh kèm theo.Để giảm viêm trong điều trị đợt gút cấp có thể lựa chọn các thuốc hiện hành như colchicine, NSAIDs, corticoid toàn thân hay tại chỗ, tùy vào cơ địa mỗi người.
- Để làm hạ và duy trì axit uric máu ở mức cho phép, có thể sử dụng các thuốc có tác dụng giảm tổng hợp axit uric như allopurinol, befuxostat, pegloticase hoặc các thuốc làm tăng thải axit uric khỏi cơ thể như probenecid hoặc sulfinpyrazone.
- Luôn cần thiết kiểm soát tốt các bệnh kèm theo như tăng huyết áp, đái tháo đường, rối loạn chuyển hoá lipid máu.

Hành động thông minh khi bị trật khớp

Trật khớp là một tổn thương trong đó đầu xương bị đẩy ra khỏi vị trí bình thường. Nếu bạn cảm thấy khớp bị biến dạng và đau khi vận động, sưng tấy, đau dữ dội hoặc nhói buốt, tê gần vùng bị tổn thương…thì bạn đã bị trật khớp. Bạn nên làm theo những cách dưới đây để "xử lý" thông minh nhất vấn đề này:
Hạn chế di chuyển, cử động

Việc đầu tiên cần làm khi bị trật khớp là không nên di chuyển, cử động để tránh lực tác động lên khớp đang bị sai. Nhiều người không hiểu điều đó nên ra sức lắc, xoay khớp, nắn bóp hoặc cố cử động nhẹ nhàng nhằm đưa khớp trở lại vị trí ban đầu. tuy nhiên, điều này có thể gây tổn thương khớp, cơ, dây chằng, dây thần kinh hoặc các mạch máu ở xung quanh vùng khớp đang bị tổn thương.
Hành động "thông minh" khi bị trật khớp1
Trật khớp thường xuyên diễn ra khi bạn chơi thể thao hoặc lao động nặng sai cách

Cố định khớp

Nếu chỉ ngồi im, hạn chế di chuyển, cử động vẫn chưa ổn, bạn phải cố định khớp ở tư thế đúng với vị trí trước đó. Tùy từng vị trí trật khớp để tìm ra vùng cố định nâng đỡ cho phần khớp đang bị tổn thương. Ví dụ, bạn bị trật khớp khuỷu tay, hãy dùng một miếng vải hoặc áo buộc cố định cánh tay vào thân người để cố định phần khớp khuỷu tay đang bị đau.
Chườm lạnh

Nhiều người khi bị đau khớp thường chườm nóng, đắp muối hoặc dùng rượu thuốc, mật gấu để xoa bóp nhằm giảm đau. Tuy nhiên, đó là cách làm hoàn toàn sai. Nếu bạn có những triệu chứng của trật khớp, thì bạn chỉ nên chườm lạnh lên vùng khớp đang bị sai để tránh và giảm sung phù. Có thể dùng đá lạnh chườm trực tiếp lên da vùng khớp đang bị sưng, đau hoặc cho đá vào miếng vải để chườm.

Hành động "thông minh" khi bị trật khớp2Hãy cố định khớp và chỉ nên chườm lạnh vết thương thôi nhé

Đến bệnh viện

Thông thường, trật khớp được chúng ta coi là bệnh không nguy hiểm, nếu nó không quá đau và ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của bạn thì hẳn là chẳng ai đến bệnh viện để khám chữa hay điều trị với chứng bệnh này. Nhưng nếu bạn bị trật khớp và cảm thấy không quá đau sau khi đã cố định khớp và chườm lạnh thì bạn cũng nên đến cơ sở y tế để các bác sỹ kiểm tra và điều trị.

Chăm sóc vết thương sau khi điều trị

Sau khi đã được các bác sỹ giải quyết êm thấm vấn đề trật khớp, một trong những vấn đề không kém phần quan trọng tiếp theo chính là việc chăm sóc vết thương sau khi bị trật khớp này. Bạn nên làm những việc như sau:
- Xoa và uống thuốc bổ trợ khớp đều đặn theo chỉ dẫn. Không dùng những loại thuốc lạ nếu chưa hỏi ý kiến bác sĩ.
- Ngay sau khi vừa tháo băng hoặc mới hồi phục, bạn không nên trở lại chơi bóng ngay, mà phải kiên trì ngừng chơi trong thời gian quy định của bác sĩ. Vì khi đó các khớp mới lành lại và chân còn yếu, nên có thể bị tái phát trở lại nếu bạn bắt chúng đương đầu với những cú va chạm mạnh.

Hành động "thông minh" khi bị trật khớp3
Bạn cũng nên đến bệnh viện để các bác sỹ kiểm tra lại vết thương


- Đồng thời tránh tối đa các lực tác động mạnh lên khớp chân bằng cách giảm hoạt động thường ngày, tránh đạp xe hoặc va chạm phải các đồ vật trong nhà…
- Nếu bị đau trở lại hoặc vết thương sưng tấy lên thì cần đến gặp bác sĩ để được khám lại và điều trị kịp thời.

Để phòng ngừa tình trạng trật khớp gây đau đớn, bạn nên:

- Chọn lựa các môn thể thao phù hợp với sức khỏe để tránh tình trạng quá sức. Nếu bạn thích chơi các môn thể thao mạnh, có sự va chạm, nguy hiểm cho xương khớp, bạn nên trang bị bảo vệ cho các khớp xương dễ gặp nạn.
Hành động "thông minh" khi bị trật khớp4
Bạn nên chọn những môn thể thao nhẹ nhàng để tránh bị trật khớp lại
- Khi đã bị trật khớp một lần bạn cần hết sức lưu ý vì khớp rất dễ bị trật lại. Để tránh trật khớp tái diễn, nên chọn những môn thể thao như: đi bộ, đi xe đạp, bơi lội, và vận động nhẹ vì nó tốt cho các khớp xương của bạn hơn.

Giúp xương chắc khỏe

Thói quen ăn uống không đủ chất dinh dưỡng, lười vận động thể chất… là những nguyên nhân khiến xương bị thiếu hụt canxi, ngày càng yếu đi và làm tăng nguy cơ loãng xương về sau.



• Vai trò của can xi
Khác với những gì chúng ta nghĩ, bộ xương thay đổi đến 20% mỗi năm. Nghĩa là, mỗi năm, chất xương mất đi 20% và chất xương mới sẽ phải sản sinh ra để bù vào chỗ mất và quá trình này kéo dài cho đến khi chúng ta 30 tuổi. Sau tuổi 30, quá trình tạo xương không còn nữa mà chỉ còn quá trình mất đi. 
Có thể ví bộ xương con người như một ngân hàng. Khi còn trẻ, ta càng gửi nhiều tiền vào ngân hàng thì khi về già, ta càng được lợi. Thế nhưng, điều đáng nói là thời trẻ, hiếm ai “gửi” đủ lượng canxi cần thiết cho xương. Trong khi đó, 90% xương cần phải được “gửi” trước tuổi 20. Nếu lượng canxi không được nạp đủ, thì nguy cơ loãng xương càng cao và sẽ đến sớm hơn (so với độ tuổi trung bình nó thường diễn ra).
Với độ tuổi từ 20 trở lên, lượng canxi cần phải nạp vào khoảng 1000 mg/ ngày. Các thực phẩm như cá mòi, cá hồi, rau tươi màu xanh đậm, các sản phẩm từ sữa, đậu nành…, là nguồn cung cấp canxi rất tốt cho cơ thể. Tuy nhiên, hầu hết chúng ta đều không nạp đủ lượng canxi cần thiết qua khẩu phần ăn hàng ngày. Do đó, bạn nên tham khảo ý kiến của bác sĩ về việc bổ sung canxi dưới dạng thuốc.
• Tầm quan trọng của vitamin D
Một nghiên cứu đã được thực hiện trên những phụ nữ sau tuổi mãn kinh. Họ chia những người tình nguyện ra thành hai nhóm, một nhóm được dùng vitamin D, nhóm còn lại không được bổ sung vitamin D trong vòng 1 năm. Kết quả cho thấy, những phụ nữ có lượng vitamin D trong máu cao hơn sẽ hấp thụ canxi tốt hơn nhóm kia đến 65%. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu cũng cảnh báo rằng nạp quá ít vitamin D cũng có thể dẫn đến nhiều bất lợi cho sức khỏe: từ chứng loãng xương cho đến tiểu đường típ 1,và thậm chí là ung thư. Vì vậy, lượng vitamin D khuyến cáo nạp vào mỗi ngày là khoảng1.800 đơn vị.
• Để có đủ lượng vitamin D
Ngoài việc bổ sung những loại thực phẩm chứa nhiều vitamin D như gan, dầu cá, bạn cũng cần nên phơi nắng mỗi ngày.
Dưới ánh sáng mặt trời, tiền vitamin D có trên da sẽ được chuyển hóa thành vitamin D cung cấp cho cơ thể. Tuy nhiên, bạn cần tránh phơi dưới ánh nắng quá gay gắt, sẽ dễ làm cho làn da bị tổn thương.
Ngoài ra, các hoạt động thể dục cũng giúp ích cho xương cứng cáp và làm giảm tỷ lệ loãng xương. Vì thế, mỗi ngày bạn nên dành ít nhất 30 phút để luyện tập thể thao như aerobic, khiêu vũ, bơi lội, chạy bộ…, những hoạt động này sẽ giúp bộ xương ngày càng chắc khỏe, đồng thời giúp ngăn ngừa các chứng bệnh về xương sau này.

Xương thủy tinh: Căn bệnh hiếm gặp khó chữa

GS.BS Nguyễn Thị Hoàn cho biết, xương thủy tinh là bệnh di truyền, trẻ có thể bị gẫy xương ngay từ khi còn nằm trong thời kỳ bào thai.

Bệnh xương thủy tinh: Căn bệnh hiếm gặp khó chữa

Giữa tháng 11 vừa qua, trường hợp của gia đình anh Đỗ Văn Phương, trú tại Nhổn, Từ Liêm, Hà Nội, khiến bao người rơi nước mắt. Vợ anh sinh con sớm hơn 1 tháng so với dự kiến vì vỡ ối. Bé Tiến Phát ra đời trong tình trạng tím tái, có dấu hiệu sức khỏe kém. Khi được kiểm tra, các bác sĩ kết luận bé bị gãy hai chân và một tay và được xác nhận là bệnh xương thủy tinh

Một trường hợp khác là bé Giang ở Thái Nguyên, ngay từ khi mới sinh bé cũng được chẩn đoán là mắc căn bệnh hiếm gặp này. Bố mẹ bé không dám bế con lâu, mỗi lần cho con bú, bố bé phải nhẹ nhàng nâng con lên trao vào lòng mẹ. 

Họ chỉ sợ một chút mạnh tay, sơ sểnh của mình sẽ khiến con gãy xương, bị tổn thương. Sau khi sinh, bé bị gãy xương liên tục, phải nằm điều trị suốt gần 9 tháng tại viện. Bố em đã nghỉ làm một năm để bế và chăm con. Từ đó tới suốt 6 năm sau, ngày nào bé cũng phải dùng thuốc. 

GS.BS Nguyễn Thị Hoàn (Khoa Nội tiết - Chuyển hoá, bệnh viện Vinmec) chia sẻ 2 trường hợp mà bác sĩ từng gặp sau:

Xương thủy tinh: Căn bệnh hiếm gặp khó chữa 1
(Ảnh 1)

Trong hình ảnh là bệnh nhân N.T.N, 23 ngày tuổi, bị bệnh xương thủy tinh ở typ III có tổn thương xương nặng trên phim X-quang (XQ) sau đẻ. Tiền sử gia đình có chị gái bị chết lúc 47 ngày tuổi với chẩn đoán bệnh xương thủy tinh. (Ảnh 1)

Xương thủy tinh: Căn bệnh hiếm gặp khó chữa 2
(Ảnh 2)    

Một bệnh nhân 6 tuổi, bị bệnh xương thủy tinh typ III, lùn nặng, biến dạng nặng lồng ngực, chi, cột sống. Mặt hình tam giác. Không có khả năng đi lại.  hình ảnh XQ tổn thương nặng: xương sọ mỏng, các đốt  sống dẹt, các xương dài mỏng, gẫy, cong… (Ảnh 2)    

Bệnh xương thủy tinh là bệnh di truyền

Xương thủy tinh là bệnh di truyền về xương. Người bi bệnh xương thủy tinh có xương bị loãng, giòn, dễ gẫy. Người mắc bệnh này có thể bị gẫy tay, chân bất cứ lúc nào. 

Đặc trưng của bệnh là sự tổn thương thành phần collagen typ I của mô liên kết gây ảnh hưởng không những ở xương mà còn ở da, dây chằng, củng mạc mắt và răng như: gãy xương tự phát, biến dạng xương, lùn, bất thường của răng (tạo răng bất toàn), giảm thính lực. Căn bệnh này chủ yếu là do di truyền bởi gen trội hoặc lặn từ phía bố hoặc mẹ.

Trả lời về vấn đề xương thủy tinh, GS.BS Nguyễn Thị Hoàn (Khoa Nội tiết - Chuyển hoá, bệnh viện Vinmec) cho biết, đây là bệnh di truyền, trẻ bị gẫy xương ngay từ khi còn nằm trong thời kỳ bào thai. Với những trường hợp người bố người mẹ mắc bệnh, người mẹ cần tới bệnh viện để theo dõi tình trạng thai. 

Với thể nặng, biểu hiện rõ thì các y bác sĩ có thể phát hiện ngay trong 3 tháng đầu mang thai và làm chẩn đoán trước sinh bằng siêu âm. Trong trường hợp này người mẹ sẽ được chỉ định cho dừng thai. Với thể nhẹ hơn, sau khi sinh, trẻ sẽ được điều trị truyền thuốc để hạn chế gẫy xương.

BS Hoàn chia sẻ thêm, bệnh tạo xương bất toàn còn được gọi là bệnh xương thuỷ tinh hay bệnh giòn xương là một nhóm bệnh lí bao gồm nhiều thể lâm sàng và có đặc điểm di truyền khác nhau. 

Bệnh gặp với tỷ lệ khác nhau ở mỗi nước nhưng được ước tính chung  là 1/10 000. Đặc trưng của bệnh là sự tổn thương thành phần collagen typ I của mô liên kết gây nên  bệnh cảnh lâm sàng không những ở xương mà còn ở da, dây chằng, củng mạc mắt và răng như: gãy xương tự phát, biến dạng xương, lùn, bất thường của răng (tạo răng bất toàn), giảm thính lực do bất thường của các xương nhỏ, củng mạc mắt có màu xanh. 

Biểu hiện của bệnh xương thủy tinh rất khác nhau tuỳ theo từng cá thể, sự khác nhau về lâm sàng và mức độ nặng nhẹ của bệnh là do các thể đột biến gen quy định. Dựa vào các triệu chứng lâm sàng, tổn thương, và đặc tính di truyền, bệnh được chia thành 4 typ I-IV: 

- Typ I là bệnh di truyền trội nhiễm sắc thể thường (hoặc đột biến mới ở 33% các trường hợp) gây ra các allele không có chức năng dẫn đến giảm số lượng sợi procollagen typ I. Đây là thể lâm sàng nhẹ nhất, ít gẫy xương và không có biến dạng xương, củng mạc mắt màu xanh.

- Typ II là thể nặng nhất, tử vong trong giai đoạn chu sinh, là bệnh di truyền trội, có thể do đột biến mới, (có thể di truyền lặn nhưng hiếm), các đột biến  gen COL1A1 và COL1A2 đã gây sự thay đổi cấu trúc của chuỗi collagen typ I. Các biểu hiện lâm sàng: gẫy xương từ trong tử cung, tử vong do suy hô hấp. 

- Typ III là bệnh di truyền trội hoặc lặn, đột biến điểm của gen COL1A1 và COL1A2 gây bất thương cấu trúc của collagen typ I. Đây là thể nặng sống qua giai đoạn sơ sinh. Lâm sàng đặc trưng của thể này là gãy xương tái phát gây biến dạng xương tiến triển, lùn nặng. 

- Typ IV là bệnh di truyền trội thường kết hợp với đột biến điểm hoặc mất đoạn nhỏ của gen COL1A1, đôi khi của gen COL1A2 gây nên thay đổi về mặt cấu trúc của collagen typ I. Biểu hiện nặng nhẹ khác nhau tuỳ theo tuổi, biến dạng xương ở mức độ nhẹ và vừa.

Hiện nay chưa có phương pháp điều trị đặc hiệu cho bệnh xương thủy tinh. Rất nhiều các thử nghiệm điều trị được tiến hành và có kết quả bước đầu khả quan như liệu pháp gen, ghép tuỷ xương. 

Bệnh này có tổn thương ở nhiều cơ quan khác nhau: xuơng, răng, củng mạc mắt và tai. Việc chẩn đoán xác định có thể dựa trên sự tuân thủ các tiêu chuẩn lâm sàng và XQ, tỷ trọng xương. Tuy nhiên đây là bệnh di truyền nên việc phòng bệnh bằng tư vấn di truyền được đặt lên hàng đầu. 

Ðau thần kinh tọa và cột sống thắt lưng

Đau thần kinh tọa phối hợp với bệnh cột sống thắt lưng gây ra hội chứng thắt lưng hông. Mùa đông, ở người bệnh mạn tính, bệnh thường trở nặng và số người mắc bệnh lần đầu cũng gia tăng.

Vì sao đau thần kinh tọa lại phối hợp với bệnh cột sống thắt lưng?
Trên thực tế lâm sàng, có nhiều bệnh nhân bị đau thần kinh tọa phối hợp cùng với bệnh của cột sống thắt lưng. Nguyên nhân là do đoạn cột sống thắt lưng có các rễ thần kinh tủy sống liên quan về cấu tạo, chức năng và bệnh lý với dây thần kinh tọa (thần kinh hông to). Nếu cột sống thắt lưng hoặc đĩa đệm có những tổn thương, thường làm cho các rễ thần kinh bị tổn thương theo, trong đó có các rễ cấu tạo thần kinh tọa. 
Những bệnh cột sống thắt lưng như: thoái hóa cột sống; thoái hóa đĩa đệm ở người cao tuổi; thoát vị đĩa đệm; trượt đốt sống do chấn thương; viêm đốt sống; chấn thương dây thần kinh tọa, gãy xương cột sống thắt lưng, gãy xương chậu; viêm cột sống do tụ cầu, lao cột sống... đều có thể gây ra hội chứng thắt lưng hông.
 Sơ đồ giải phẫu và mô tả đau thần kinh tọa.
Sơ đồ giải phẫu và mô tả đau thần kinh tọa
Dấu hiệu đa dạng của bệnh
Bệnh nhân bị tổn thương cột sống, khi bị hội chứng thắt lưng hông thường có các dấu hiệu của 2 hội chứng: hội chứng cột sống và hội chứng rễ thần kinh phối hợp với nhau.
Biểu hiện của hội chứng cột sống thường gồm các triệu chứng: sau một chấn thương hoặc đột ngột xảy ra đau cột sống thắt lưng, hay có khi lại chỉ thấy đau ít rồi tăng dần, khi đó gọi là đau bán cấp hoặc mạn tính. Đau có các tính chất: chỉ đau ở những đốt sống nhất định, mức độ đau có thể là đau dữ dội hay chỉ đau nhẹ âm ỉ. Khi ấn trên mỏm gai các đốt sống thắt lưng, bệnh nhân sẽ thấy đau chói ở các đốt sống bị tổn thương. 
Biến dạng cột sống: nhiều bệnh nhân bị thay đổi đường cong sinh lý của cột sống như giảm ưỡn, mất ưỡn cột sống thắt lưng hoặc cột sống bị cong đảo ngược, khi đó, cột sống thắt lưng không ưỡn như bình thường mà lại gù và lệch vẹo sang một bên. Các động tác cử động đều bị giảm biên độ hoạt động như: động tác cúi thì không cúi được như trước kia, động tác ngửa thì hơi ngửa đã bị đau, các động tác nghiêng, xoay cột sống đều bị hạn chế hoặc rất đau. Chụp Xquang, chụp cắt lớp vi tính hay cộng hưởng từ xác định được tổn thương cột sống.
Dấu hiệu của hội chứng rễ thần kinh gồm: đau rễ thần kinh, với tính chất đau lan dọc theo đường đi của rễ thần kinh, đau nhức buốt như bị mưng mủ; khi bệnh nhân nghỉ ngơi thì hết đau hoặc giảm đau rõ rệt; đau tăng khi đi, đứng, khi ho hoặc hắt hơi; nặng hơn là bị đau liên tục dù ở tư thế nào cũng đau. 
Do bị đau nên bệnh nhân giảm khả năng đi lại, giảm khả năng lao động. Bệnh nhân, người nhà hay bác sĩ có thể tìm thấy các điểm đau: thống điểm Valleix là ấn ở điểm giữa nếp lằn mông thì bệnh nhân đau; dấu hiệu Déjerine dương tính là khi bệnh nhân ho hoặc hắt hơi thì đau tăng. Nhiều bệnh nhân còn cảm thấy bị rối loạn cảm giác da dọc mặt ngoài đùi, lan xuống cẳng chân tới mắt cá ngoài, mu bàn chân và ngón chân hoặc từ mặt sau đùi, cẳng chân tới gót chân và gan bàn chân. Bệnh nhân không đi xa được do đau mà phải nghỉ từng đoạn cho đỡ đau mới đi tiếp được. 
Một số bệnh nhân bị yếu cơ nên làm động tác gấp bàn chân về phía mu khó khăn hoặc khó duỗi thẳng bàn chân. Rối loạn phản xạ: nhiều người bị giảm hoặc mất phản xạ gân gót. Rối loạn thần kinh thực vật gây giảm nhiệt độ da, rối loạn tiết mồ hôi, mất phản xạ dựng lông, lông chân khô dễ gãy, bị teo cơ. Biến dạng cột sống: cột sống bị vẹo một bên và mất đường cong sinh lý, ưỡn ra trước ở vùng thắt lưng; thân mình và xương chậu nghiêng về bên đối diện với bên đau, thân hơi gập ra trước, mông bên đau xệ xuống, cơ cạnh cột sống co cứng.
Phương pháp điều trị
Điều trị hội chứng thắt lưng hông, bệnh nhân cần được nghỉ ngơi tuyệt đối trong trường hợp nặng, nên nằm giường phẳng, tránh nằm võng hay ngồi ghế xích đu, tránh vận động mạnh như xoay người đột ngột, chạy nhảy, cúi gập người... Có nhiều phương pháp điều trị thích hợp với từng bệnh nhân. Phương pháp vật lý trị liệu: kéo dãn cột sống, nắn cột sống, thể dục trị liệu, dùng đèn hồng ngoại, sóng ngắn, đắp sáp nến... 
Các loại thuốc giảm đau có thể dùng là aspirin, thuốc kháng viêm không steroid, phong bế rễ thần kinh ngoài màng cứng hay trong màng cứng bằng corticoid hay thuốc tê novocain kết hợp với vitamin B12. Dùng thuốc giãn cơ, thuốc an thần, các vitamin nhóm B liều cao kết hợp với axit folic. Dùng thuốc kháng sinh chống nhiễm khuẩn. Phẫu thuật điều trị trong các trường hợp: bệnh thể liệt, hội chứng đuôi ngựa, hẹp ống sống thắt lưng, đau không thể chịu được mặc dù đã dùng thuốc giảm đau.
Lời khuyên của bác sĩ
Hội chứng thắt lưng hông thường do những bệnh thoái hóa cột sống, thoái hóa đĩa đệm, thoát vị đĩa đệm, trượt đốt sống do chấn thương, viêm đốt sống, gãy xương cột sống, gãy xương chậu, viêm cột sống do tụ cầu, do lao. Vì vậy, mọi người cần khám sức khỏe định kỳ để phát hiện sớm và điều trị triệt để các bệnh là nguyên nhân gây bệnh này. 
Trong mùa đông giá lạnh, cần mặc ấm, nhất là trong những ngày trời rét và độ ẩm cao để bệnh không tăng nặng. Mọi người cần đảm bảo dinh dưỡng tốt, tăng cường ăn rau xanh và trái cây chín các loại. Nên bổ sung thêm vitamin nhóm B, vitamin C hàng ngày. Không nên lao động nặng và vận động mạnh ở vùng thắt lưng và hai chân. Đi giày, ủng để tránh chân bị nhiễm lạnh.

Kiểm soát cơn đau cơ xương khớp tại nhà

Những cơn đau của bệnh lý cơ xương khớp thông thường có thể không nguy hiểm đến tính mạng nhưng ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng sống, tâm sinh lý của người bệnh. Nếu không được xử trí sớm, tình trạng viêm sẽ nhanh chóng nặng lên và lan rộng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến vận động, sinh hoạt hàng ngày.
benh-6622-1385522259.jpg
Mùa đông nên đặc biệt lưu ý đến các bệnh lý về cơ xương khớp. Ảnh: Lê Anh
Theo BS Phạm Quang Thuận, Trưởng khoa Nội cơ xương khớp, BV Thể thao Việt Nam, để kiểm soát các cơn đau của bệnh lý cơ xương khớp tại nhà, người bệnh có thể sử dụng một số các thuốc giảm đau, giảm đau kháng viêm thông thường không cần kê đơn (OTC) như:
- Các thuốc giảm đau thông thường có chứa paracetamol là lựa chọn hàng đầu cho chứng đau cơ xương khớp mức độ vừa và nhẹ, bởi ưu điểm phù hợp với nhiều đối tượng và không ảnh hưởng đến dạ dày. 
- Các thuốc kháng viêm giảm đau không steroids (NSAIDs) như diclophenac dưới dạng gel thoa ngoài da hay cao dán. 
- Có thể phối hợp các thuốc trên để đạt hiệu quả tốt hơn. Cũng cần kết hợp nghỉ ngơi hoặc luyện tập thích hợp, sử dụng phương tiện, dụng cụ hỗ trợ, vật lý trị liệu, chế độ dinh dưỡng phù hợp.
- Thận trọng với các thuốc dùng tại chỗ (gel, cao dán) có chứa tinh dầu nóng, gây giãn mạch mạnh trong những trường hợp đau cơ xương khớp cấp tính do viêm (các chứng viêm khớp cấp, chấn thương giai đoạn cấp).
- Khám và tư vấn bác sĩ nếu triệu chứng viêm đau không giảm sau vài ngày điều trị. Tránh lạm dụng thuốc.
BS Thuận khuyến cáo, để phòng tránh các bệnh cơ xương khớp trong mùa lạnh, mọi người phải luôn giữ ấm cơ thể, nhất là vùng cơ thể xa tim như tay, chân. Có chế độ lao động, nghỉ ngơi thích hợp, đặc biệt lưu ý tư thế cơ thể khi làm việc, nhất là công việc phải bê vác, kéo, nâng vật nặng. Tư thế lúc nghỉ cũng phải đảm bảo đúng, tránh tư thế nửa nằm, nửa ngồi, gối đầu cao quá lâu.
Thường xuyên và duy trì đều đặn việc tập luyện thể dục thể thao ở mức phù hợp với bản thân mỗi người, tránh tập luyện quá sức. Cung cấp đủ thành phần dinh dưỡng, nước uống nhằm đảm bảo năng lượng cho cơ thể.
Ngoài ra, mỗi người cũng nên đi khám và tư vấn định kỳ để phát hiện và điều trị sớm các bệnh lý nói chung, bệnh lý cơ xương khớp nói riêng.

Viêm khớp dạng thấp: Ba sai lầm dẫn đến tàn phế

Việc điều trị viêm khớp dạng thấp (VKDT) cần đúng lúc và đúng cách là hai yếu tố tối quan trọng, tuy nhiên, nhiều bệnh nhân vẫn xem thường những dấu hiệu ban đầu, tự ý sử dụng thuốc...

Viêm khớp dạng thấp là bệnh khớp mạn tính thường gặp nhất trong số các bệnh khớp viêm. Tại Việt Nam, nữ giới mắc bệnh này nhiều hơn nam giới theo tỉ lệ 3/1 và thường gặp nhất ở lứa tuổi từ 40-50 tuổi. 

Tuy không trực tiếp gây tử vong nhưng VKDT khiến bệnh nhân nhanh chóng bị tàn phế đi kèm nhiều biến chứng và giảm rõ rệt chất lượng sống.
Lạm dụng thuốc kháng viêm, giảm đau
Mục đích đầu tiên của điều trị VKDT là đạt được sự lui bệnh lâm sàng, giảm đau, giảm các triệu chứng khó chịu, ngăn ngừa các biến dạng và giữ gìn các chức năng bình thường của khớp, cải thiện chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân.

Trước đây các loại thuốc như Diclofenac, Ibuprofen, Meloxicam, Celecoxib, Etoricoxib... hay corticoid là những loại thuốc chính được sử dụng để giảm đau và viêm tức thì. Tuy nhiên, các thuốc này thực tế chỉ làm giảm triệu chứng đau và viêm, các tổn thương khớp vẫn tiếp tục phát triển, bệnh vẫn tiến triển và dần dần trở nên tàn phế, cứ ngừng thuốc là khớp lại sưng đau. 
Đó là chưa nói đến những tác dụng phụ trong quá trình sử dụng thuốc như: viêm loét dạ dày, tá tràng, chảy máu dạ dày - ruột, thủng dạ dày - ruột...

Theo PGS.TS.BS Nguyễn Thị Ngọc Lan, Phó Chủ tịch Hội Thấp khớp học Việt Nam, nguyên Trưởng khoa Cơ Xương khớp BV Bạch Mai, việc điều trị những thuốc như vậy không thể giúp bệnh nhân "sống chung" với bệnh VKDT một cách nhẹ nhàng; ngược lại, trong trường hợp sau thời gian dài điều trị với thuốc, bệnh nhân phản ứng không tốt với chính những thuốc này thì hậu quả gây ra là không hề nhỏ.

Tự ý chọn lựa sản phẩm hỗ trợ
Hiện tại nhiều bệnh nhân khớp sử dụng một số sản phẩm gọi là thực phẩm chức năng được cho là có tác dụng tốt cho bệnh của họ. Trên thị trường hiện có hàng trăm loại thực phẩm chức năng dành cho các bệnh lý khớp.

Tuy vậy, thực phẩm chức năng không phải là thuốc, không thay thế được thuốc, mà chỉ có tác dụng hỗ trợ cho thuốc. Người bệnh cần phải biết cách chọn lựa bằng cách tham vấn các thầy thuốc để có thể chọn một vài loại thích hợp cho bệnh lý của mình.

“Trên thực tế, số lượng bệnh nhân tự điều trị bệnh khớp khá là nhiều. Có rất nhiều người bệnh tin dùng một số loại thuốc được truyền miệng là chữa được bệnh khớp. 
Với bệnh nhân VKDT, việc tự ý dùng thuốc sẽ rất nguy hiểm thậm chí sẽ trầm trọng hơn khi cơ thể bệnh nhân không còn đáp ứng được với những loại thuốc điều trị hoặc có nhiều biến chứng không thể dùng được các thuốc điều trị VKDT”, PGS.TS.BS Lê Anh Thư, Phó Chủ tịch Hội Thấp khớp học Việt Nam, nguyên Trưởng Khoa Nội Cơ Xương Khớp BV Chợ Rẫy khẳng định.
Bỏ lỡ giai đoạn “cửa sổ cơ hội”
Khi thấy đau khớp, người bệnh thường coi đó chỉ là các hiện tượng nhức mỏi khớp thông thường, do thời tiết, do lao động nặng... mà không đi khám để được phát hiện bệnh kịp thời. Chính điều này làm cho cơ hội có thể can thiệp điều trị nhằm bảo toàn chức năng vận động của khớp bị bỏ qua, khiến khớp đã bị hủy hoại nặng thì dù có được điều trị tích cực cũng khó lòng phục hồi chức năng vận động của khớp.

VKDT là một bệnh chưa được chữa khỏi hoàn toàn, và có một giai đoạn khi khớp chưa bị tổn thương, được coi là “cửa sổ cơ hội” để có thể can thiệp, phòng tránh các tổn thương hủy khớp, dính khớp, mất chức năng vận động của khớp. 

Với việc điều trị sớm bằng các thuốc như methotrexat kết hợp thuốc điều trị sinh học như Tocilizumab sẽ giúp kiểm soát được bệnh, và đây là cách duy nhất để tránh tổn thương khớp không hồi phục, cải thiện triệu chứng, hạn chế tàn phế và nâng cao chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân. Các thuốc này nói chung khá an toàn nếu được theo dõi, quản lý tốt.

Bệnh xương bánh chè hai mảnh có gì lạ?

Sau khi bị chấn thương, tai nạn, va đập mà có các biểu hiện nghi ngờ, cần đến cơ sở y tế chuyên khoa xương khớp để được khám và đánh giá đúng mức tổn thương.

Bệnh lý xương bánh chè hai mảnh khá hiếm gặp với đa số các trường hợp được phát hiện tình cờ. Thông thường, tổn thương này không có triệu chứng, tuy nhiên, một số trường hợp có thể gây đau do vận động quá mức của khớp gối. Phần lớn các trường hợp này có thể kiểm soát bằng điều trị nội khoa, một số trường hợp không đáp ứng với điều trị nội khoa thì phẫu thuật có thể được thực hiện.
Một trường hợp đặc biệt
Theo lời kể của bệnh nhân, cách đây 3 tháng, trong khi chơi thể thao, bệnh nhân có ngã khuỵu chân nhưng không đập gối xuống đất, sau đó xuất hiện đau và sưng gối, tự sơ cứu bằng băng chun, chườm đá, thuốc giảm đau, nghỉ ngơi, hạn chế vận động. Triệu chứng cải thiện dần và hết sau 3 tuần, bệnh nhân trở lại chơi thể thao nhưng triệu chứng đau và sưng nề xuất hiện trở lại ngay. Bệnh nhân tới khám tại phòng khám chuyên khoa Chấn thương chỉnh hình, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội.
Chẩn đoán vỡ cực trên ngoài xương bánh chè. Điều trị bảo tồn với việc sử dụng nẹp gối dài, thuốc kháng sinh, giảm đau, giảm nề, canxi. Sau 4 tuần, bệnh nhân tháo nẹp, tập đi nhẹ. Tuy nhiên, tình trạng đau và tràn dịch gối lại xuất hiện. Bệnh nhân tái khám, được chỉ định chụp phim cộng hưởng từ thấy có tổn thương cực trên ngoài, nhiều khả năng là thương tổn xương bánh chè hai mảnh, đã phẫu thuật lấy bỏ mảnh xương phụ. Sau mổ, bệnh nhân được đeo nẹp gối dài để bất động khớp gối trong 2 tuần, sau đó bắt đầu tập gấp gối nhẹ tăng dần, tập luyện thể thao trở lại sau 6 tuần. Khám lại sau 3 tháng, khả năng gấp gối của bệnh nhân hoàn toàn bình thường, không đau, không hạn chế vận động khi chạy, đi xe đạp...
Bệnh xương bánh chè hai mảnh có gì lạ? 1
 Hình ảnh vị trí xương bánh chè trên phim Xquang
Thế nào là tổn thương xương bánh chè hai mảnh?
Tổn thương xương bánh chè hai mảnh xuất hiện khi điểm cốt hóa phụ của xương bánh chè không liền với xương bánh chè chính, gặp ở giai đoạn phát triển xương tuổi thiếu niên. Tỷ lệ gặp tổn thương này khoảng 2% và 50% các trường hợp bệnh nhân bị cả hai bên. Đa số các trường hợp bệnh nhân không có biểu hiện lâm sàng mà chỉ tình cờ phát hiện qua chụp phim thường quy khớp gối.
Biểu hiện tổn thương
Triệu chứng đau do xương bánh chè hai mảnh thường xuất hiện theo 1 trong 2 cách: tiến triển từ từ hoặc là đột ngột sau chấn thương. Đau thường khu trú ở cực trên ngoài của bánh chè tương ứng với vị trí của mảnh xương phụ, đau thường tăng lên khi vận động và ảnh hưởng đến vận động thường kèm theo sưng nề quanh vị trí xương phụ. Tràn dịch gối rất hiếm gặp, nếu có thường phải loại trừ các tổn thương trong khớp kèm theo. Ở những bệnh nhân có triệu chứng kéo dài, tình trạng teo cơ đùi thường xảy ra và kèm theo là hạn chế duỗi gối chủ động.
Chẩn đoán và điều trị thế nào?
Chụp Xquang, chụp cộng hưởng từ có giá trị vì ngoài việc chẩn đoán xác định tổn thương còn loại trừ các tổn thương trong khớp khác khi có tràn dịch khớp gối kèm theo.
Khi được xác định chẩn đoán xương bánh chè hai mảnh, việc điều trị bảo tồn vẫn có hiệu quả với việc sử dụng nẹp gối, giảm vận động, thuốc giảm đau đường uống và có thể dùng corticoid tiêm tại chỗ. Chỉ định phẫu thuật thường đặt ra khi đáp ứng kém với điều trị bảo tồn hoặc là giảm khả năng vận động của bệnh nhân sau điều trị.
Lời khuyên của bác sĩ
Tổn thương xương bánh chè hai mảnh khá hiếm gặp. Vì vậy, sau khi bị chấn thương, tai nạn, va đập mà có các biểu hiện nghi ngờ, cần đến cơ sở y tế chuyên khoa xương khớp để được khám và đánh giá đúng mức tổn thương.   

Hiểu đúng để phòng ngừa bệnh xốp xương

Để phòng ngừa bệnh xốp xương, quan trọng là thực hiện chế độ ăn uống hợp lý, hoạt động thể lực đều đặn và phơi nắng.

Xương của chúng ta có cấu tạo tương tự như các cột trụ bê tông cốt sắt, bao gồm 2 phần chính là khung hữu cơ và chất vô cơ. Nhờ cấu trúc này mà xương chúng ta khỏe mạnh và bền vững. Trong bệnh loãng xương có sự suy giảm mật dộ xương và tổn thương vi cấu trúc của xương, tức là có sự hủy hoại của các cấu trúc hữu cơ và vô cơ của xương. Kết quả là sức mạnh của xương bị giảm, làm cho xương dễ bị gãy. Có tới 1/5 phụ nữ và 1/8 nam giới sau tuổi 50 bị xốp xương.
Xốp xương là gì?
Trong xương xuất hiện nhiều các hốc xương do các bè xương bị đứt gãy làm cho xương trở nên xốp hơn. Chính vì vậy mà bệnh còn có tên gọi là bệnh xốp xương. Các khoáng chất như canxi, phospho cũng bị rửa trôi đi, hàm lượng chất khoáng trong xương giảm đi, xương trở nên nhẹ hơn. Do vậy, bệnh có tên là loãng xương.
Ai có nguy cơ xốp xương?
Có 5 đối tượng có nguy cơ mắc bệnh xốp xương cao. Thứ nhất là những người có tiền sử gia đình có bố mẹ bị xốp xương. Thứ hai là người cao tuổi (cả nam và nữ trên 70 tuổi), nữ giới từ 55 tuổi trở lên, phụ nữ mãn kinh sớm, sinh trên 3 con. Thứ ba là những người thấp bé, nhẹ cân, có tư thế, dáng vóc bất thường, đặc biệt khi họ lại không được cung cấp đủ canxi và vitamin D, nghiện thuốc lá, rượu. Thứ tư là những người có nghề nghiệp tĩnh tại, không tập luyện thể dục thể thao. Thứ năm là các bệnh nhân mắc một số bệnh lý có thể gây loãng xương như cường giáp, đái tháo đường, cắt buồng trứng, cắt dạ dày- ruột, suy thận. Đặc biệt, một số bệnh nhân phải sử dụng thuốc kéo dài mà một số thuốc có thể gây loãng xương như corticosteroid, thuốc lợi tiểu, thuốc chống động kinh.
Hiểu đúng để phòng ngừa bệnh xốp xương 1
Khi các bè xương bị đứt gãy làm xương trở nên xốp hơn
Cách nào nhận biết?
Có 3 dấu hiệu lâm sàng gợi ý xốp xương là thay đổi hình dáng cơ thể, đau lưng và gãy xương. Thay đổi hình dáng cơ thể (gù, vẹo, giảm chiều cao). Biểu hiện đau lưng (đau thắt lưng cấp tính và đau thắt lưng mạn tính). Đau xuất hiện tự nhiên; sau chấn thương nhỏ, thường khỏi sau vài tuần. Đau thắt lưng mạn tính kèm theo biến dạng cột sống, biểu hiện bằng đau thắt lưng kéo dài, có những đợt đau cấp tính rồi lại khỏi, kèm theo các thay đổi tư thế cột sống như gù, vẹo cột sống. Có người cong gập lưng khiến cho các xương sườn cọ sát vào cánh chậu. Biểu hiện nặng nhất của xốp xương là gãy xương: lún xẹp thân đốt sống, gãy chỏm xương đùi, gãy đầu dưới xương cẳng tay, xương sườn, xương chậu, phần lớn là ở phụ nữ.
Lời khuyên của thầy thuốc
Để phòng ngừa bệnh xốp xương, quan trọng là thực hiện chế độ ăn uống hợp lý, hoạt động thể lực đều đặn và phơi nắng.
Chế độ ăn uống: ăn đủ đạm, calori. Bạn cần khoảng 50gr protein mỗi ngày, tương đương với 1 lạng cá biển, 2 cốc sữa chua ít béo và 1 quả trứng. Cần hạn chế chất béo trong khẩu phần ăn vì cholesterol tăng phá hủy xương. Cần đảm bảo đủ canxi, vitamin D. Một ngày, cơ thể cần 1.000mg canxi (người ở độ tuổi từ 19 - 50), 400-800 đơn vị vitamin D và lượng nhỏ magiê, vitamin K hàng ngày để giúp xương chắc khỏe. Canxi có thể cung cấp từ thức ăn hay bổ sung từ sữa hay thuốc chứa canxi. Các thực phẩm hàng ngày như tôm, tép, cua, cá chứa nhiều canxi. Tốt nhất là ăn cá kho nhừ cả xương. Các loại rau muống, rau dền, rau bí, măng khô, đậu nành, súp-lơ đều giàu canxi. Sữa và các sản phẩm chế biến từ sữa (bơ, phomat, sữa chua...), trứng là nguồn cung cấp canxi quan trọng.
Nguồn vitamin D có thể từ phơi nắng, thức ăn và bổ sung. Thực phẩm giàu vitamin D như nấm tươi, sữa, trứng, cá hồi, trai, sò... Cần ăn rau quả là nguồn cung cấp magiê như rau lá xanh, các loại hạt và đậu. Thực phẩm giàu vitamin K là các loại rau có màu xanh đậm: súp-lơ xanh, bắp cải, cải xoắn. Nếu cần thiết, có thể bổ sung mỗi ngày 1 viên đa sinh tố chứa magiê, vitamin K, acid folic, vitamin B6 và B12. Ngoài ra, nên ăn nhiều rau, trái cây và thức ăn chứa nhiều estrogen tự nhiên như giá đỗ, đậu nành, lạc, vừng, bắp cải, tỏi... vì chúng làm tăng khoáng chất trong xương.
Về chế độ hoạt động thể lực, cần tập thể dục đều đặn. Tập thái cực quyền cũng làm tăng tính mềm dẻo cơ bắp, giảm nguy cơ ngã gãy xương. Ngoài ra, nên bỏ rượu, thuốc.

Xử lý trật khớp

Trật khớp thường xảy ra sau một chấn thương hay vận động mạnh, đột ngột làm cho đầu xương bị đẩy lệch khỏi vị trí bình thường của khớp. Trật khớp có thể ở khớp háng, khớp gối, khớp khuỷu, khớp vai hoặc ở các khớp nhỏ như các khớp ngón chân, ngón tay... Triệu chứng trật khớp thường là: đau tại chỗ hoặc gần chỗ trật khớp, sưng, phù nề tại khớp, khó hoặc không thể cử động được, biến dạng khớp.
Xử lý khi bị trật khớp: khi bị trật khớp, không nên cố gắng cử động khớp vì có thể gây tổn thương khớp, phần mềm, các dây chằng, mạch máu, thần kinh quanh khớp. Cố định tạm thời khớp bị trật ở tư thế mà khớp đang ở vị trí đó. 
Chẳng hạn trật khớp khuỷu, bệnh nhân sẽ có tư thế gấp khuỷu, người sơ cứu dùng một miếng vải hay cái khăn, cái áo cố định khuỷu vào thân người. Cách thông dụng nhất là trật khớp tay có thể cố định bằng cách cột tay vào thân người; trật khớp ở chân thì có thể cột hai chân lại với nhau, dùng chân lành làm nẹp cố định cho chân bị thương. 
Đừng cố gắng nắn khớp. Nên dùng đá lạnh chườm lên vùng khớp tổn thương trong 10 - 15 phút để giúp giảm phù nề quanh khớp tổn thương, sau đó dùng băng cuộn hay vải ép khớp lại rồi đưa người bị thương đến cơ sở y tế gần nhất để điều trị.

Những bệnh cơ xương khớp ở trẻ cần đặc biệt lưu ý

Cha mẹ không nên chủ quan khi trẻ bị đau khớp gối, khớp háng hay đau cột sống dai dẳng.

Theo TS Phạm Quang Thuận, Trưởng khoa Nội cơ xương khớp BV Thể thao Việt Nam, có nhiều bệnh lý cơ xương khớp ở trẻ em cha mẹ cần đặc biệt lưu ý để tránh biến chứng nguy hiểm về sau:
1. Đau cơ, đau xương phát triển
Đây là loại bệnh cơ xương khớp rất hay gặp ở trẻ em, phổ biến ở trẻ từ 6 đến 12 tuổi. Bệnh tiến triển là do trẻ hoạt động quá mức hoặc lớn quá nhanh, xương phát triển chậm không theo kịp sự phát triển của cơ bắp. Biểu hiện của bệnh là đau chân dai dẳng, khó cử động. Trẻ thường đau vào buổi tối sau một ngày hoạt động.
Trẻ từ 12 đến 16 tuổi cũng thường xuyên mắc bệnhOsgood-Schlatter gây sưng đau ở vùng lồi củ trên xương chày, ngay dưới xương bánh chè, do vận động khớp quá mức.Bệnh gây viêm xương chày ngay phía dưới đầu gối, chỗ dây chằng rộng gắn vào. Dấu hiệu đặc trưng gồm căng cơ, đau và sưng ngay bên dưới gối và thường đau nhức hơn khi cử động.
Nếu đã bị bệnh, trẻ cần ngưng tất cả hoạt động thể lực cho đến khi khớp gối lành hẳn, trường hợp đau ít có thể tiếp tục vận động nhưng ở mức độ nhẹ hơn. Bệnh Osgood-Schlatter chỉ là tạm thời, và sẽ hết đau sau khi xương trẻ ngừng tăng trưởng ở độ tuổi trưởng thành.
2. Thấp khớp
Bệnh thấp khớp thường gặp ở trẻ 5-15 tuổi, bệnh phát triển mạnh vào mùa đông, hoặc mỗi khi thay đổi thời tiết.
Bệnh thường khởi đầu bằng viêm họng đỏ cấp tính, sốt và đau họng. Sau 7-10 ngày bệnh nhân có thể sốt cao, mệt mỏi, xanh xao, sưng, nóng đỏ và đau các khớp lớn như khớp vai, háng... kéo dài chừng 5-7 ngày rồi khỏi, không để lại di chứng gì.
Khi đã có chẩn đoán thấp khớp cấp, trẻ phải được điều trị phòng thấp để ngăn chặn sự tái phát và tránh tổn thương tim mạch.
kham1-9448-1384245649.jpg
BS Phạm Quang Thuận xem xét tình hình cơ xương khớp của bệnh nhân. Ảnh:Lê Anh
3. Hoại tử vô khuẩn chỏm xương đùi
Bệnh này có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, là nguyên nhân hay gặp nhất trong các bệnh lý khớp háng.
Cơ chế gây hoại tử chỏm xương đùi thường do thiếu máu nuôi dưỡng sau gãy cổ xương đùi di lệch hoặc trật khớp háng; tắc nghẽn mạch do trật khớp háng, tăng áp lực trong xương, nhiễm độc... Ngoài ra, các yếu tố thuận lợi khiến bệnh tiến triển có thể kể đến như dùng Steroid dài ngày, nghiện rượu, thuốc lá, mắc bệnh gan, thận mãn tính...
Tùy vào từng trường hợp mà các bác sĩ cho dùng thuốc, kích thích điện hay tiến hành khoan giảm áp, ghép xương, đục xương sửa trục... Khi bệnh đã ở giai đoạn muộn, các bác sĩ sẽ phải thay khớp háng nhân tạo giúp người bệnh hết đau, cải thiện chức năng khớp háng, đi lại, vận động tốt.
4. Viêm cột sống dính khớp
Trẻ từ 8 đến 15 tuổi rất dễ mắc phải loại bệnh này. Biểu hiện của bệnh là đau cột sống lưng, lưng cứng, hạn chế vận động, đi lại khó khăn. Người bệnh sốt, gầy sút, mệt mỏi. Khi bệnh đã rõ, cột sống thắt lưng đau nhiều, tình trạng đau thường nặng về đêm, cứng cột sống, nhất là lúc sáng sớm mới ngủ dậy.
Khi thấy trẻ có những biểu hiện này nên đưa đi khám tại các chuyên khoa xương khớp để bác sĩ ra phác đồ điều trị càng sớm càng tốt. Bệnh diễn biến kéo dài có thể có những tổn thương nội tạng kèm theo. Sau một thời gian toàn bộ cột sống dính không còn khả năng vận động, bệnh nhân có thể bị gù, vẹo cột sống, không đứng thẳng, không ngồi xổm được. Bệnh còn có thể gây ra những biến chứng như suy hô hấp, tâm phế mãn, lao phổi, liệt hai chi dưới.
Ở giai đoạn sớm của bệnh, các bác sĩ có thể cho bệnh nhân dùng thuốc kết hợp với các biện pháp vật lý trị liệu nhằm giảm thiểu ảnh hưởng đến vận động của cột sống và khớp. Khi bệnh đã phát triển quá nặng, bên cạnh các điều trị nội khoa và vật lý trị liệu, phẫu thuật là biện pháp có thể cải thiện được về chức năng và hình thái của người bệnh.
5. Biến dạng cột sống (học đường)
Thường xảy ra ở trẻ trong độ tuổi cắp sách tới trường. Nguyên nhân có thể do trẻ đeo ba lô quá nặng, ngồi học không đúng tư thế...
Biểu hiện của bệnh rất dễ phát hiện như đi lệch về một bên, ngồi xiên xẹo, thường xuyên nhức mỏi lưng.
Cha mẹ nên quan tâm đến tư thế ngồi học của con và không cho chúng mang vác quá nhiều đồ nặng trên vai tránh trẻ bị biến dạng cột sống, tạo dáng đi xấu sau này.Trẻ bị biến dạng cột sống có thể sẽ phải nẹp đai cột sống để lấy lại dáng lưng thẳng.

Chuột rút- chứng bệnh gây khó chịu

Chuột rút hay còn gọi là vọp bẻ là tình trạng co thắt cơ đột ngột, gây đau dữ dội ở một bắp thịt, làm cho bệnh nhân không tiếp tục cử động được nữa.





Chuột rút- chứng bệnh gây khó chịu 1
Chuột rút hay gặp ở người chơi thể thao
Có 2 nguyên nhân chính dẫn đến chuột rút. Nguyên nhân thứ nhất là thiếu ôxy đến cơ do tập luyện thể thao với cường độ cao, đứng lâu trên nền cứng. Nguyên nhân thứ hai là thiếu nước và các chất điện giải như canxi, kali... Do đó, những nhóm người hay bị chuột rút là vận động viên thể thao, thanh niên, phụ nữ mang thai. Ngoài ra còn có những nguyên nhân khác như do thuốc, do bệnh lý…
Một số thuốc cũng có thể gây chuột rút như: thuốc ngừa thai, lợi tiểu, thuốc hạ mỡ máu nhóm statin và clofirate, thuốc chống trầm cảm, hạ huyết áp nifedipine, thuốc chống viêm dạ dày như cimetidine, thuốc giãn phế quản…
Nếu hay bị chuột rút khi ngủ, bệnh nhân có thể làm những cách sau: thực hiện động tác như đạp xe đạp trước khi đi ngủ hay đặt một chiếc gối nhỏ dưới bắp chân và bàn chân. Tư thế ngủ này giúp tăng cường lưu thông mạch máu về đêm và do đó giúp hạn chế bị chuột rút.
Người bị chuột rút có thể áp dụng những cách sau:
+ Nếu bị ở bắp chân thì kéo chân ra, đồng thời ấn mạnh phần cuối của bắp chân trên một mặt phẳng cứng.
+ Nếu bị ở đùi, nhờ người khác dùng một tay đỡ gót chân để làm cho đầu gối của mình căng thẳng, còn một tay ấn đầu gối xuống dưới.
+ Nếu bị ở bàn chân thì cầm đầu bàn chân kéo nhẹ rồi đứng dậy và đứng thẳng người một lúc nhưng không cho gót chạm đất. Sau đó xoa bóp vùng bị chuột rút.
+ Nếu thỉnh thoảng bạn mới bị chuột rút, điều này không có gì đáng lo lắng. Tuy nhiên, nếu tần số bị chuột rút tăng lên hoặc bị chuột rút gây đau đớn, bạn cần đi khám bác sĩ. Những xét nghiệm sẽ cho biết liệu đó có phải là dấu hiệu của một số căn bệnh mãn tính như đau khớp, suy tĩnh mạch, bệnh lý tuyến cận giáp hay rối loạn thần kinh thực vật hay không.


Đau nhức vai gáy: Trị sao cho khỏi?

Cảm giác đau nhức vai gáy, cổ là triệu chứng không chỉ gây ảnh hưởng xấu đến công việc mà còn báo hiệu nhiều bệnh nguy hiểm….

BS Hồ Phạm Thục Lan - BV Nhân dân 115 TP.HCM cho biết: 
Đau cổ thường xuất hiện sau một giấc ngủ, thường do đêm nằm nghiêng, co quắp, gập cổ, tay nên vùng này thiếu dưỡng khí sinh đau nhức, trường hợp này cơn đau chỉ diễn ra một vài ngày là rút lui. Đau nhức vùng cổ, vai gáy sau một ngày lao động tay chân chỉ cần được nghỉ ngơi sẽ hết đau. 
Các hoạt động như: ngồi làm việc trong nhiều giờ, có tư thế xấu trong khi xem ti vi hoặc đọc sách, đặt máy tính với tầm nhìn quá cao hoặc quá thấp, ngủ ở vị trí không thoải mái, hoặc thường xuyên thực hiện động tác xoay cổ quá tầm… 
Với những trường hợp này chỉ cần chỉnh sửa tư thế sao cho đúng sẽ giảm cơn đau. Viêm đường hô hấp trên cũng sinh đau nhức vai gáy. Trường hợp này chỉ cần điều trị hết bệnh là cơn đau nhanh chóng biến mất.

Đau nhức vai gáy do thoái hóa khớp là bệnh thường gặp khi cao tuổi: các khớp, mạch máu đã xơ cứng, hệ tuần hoàn không còn năng động như xưa nên cơ bắp thiếu dưỡng chất sinh đau nhức. Trường hợp này cần đi bác sĩ điều trị để được dùng thuốc, tập vật lý trị liệu. Thoát vị đĩa đệm cũng gây đau nhức vai gáy, với triệu chứng: đau, tê lan xuống vai và tay.
Các nguyên nhân khác có thể kể là: đau cơ xơ, thoái hóa đốt sống, gãy xương cột sống do loãng xương, hẹp ống sống, bong gân, nhiễm trùng cột sống (viêm tủy xương, áp xe...), ung thư (ung thư thực quản đoạn trên, ung thư vòm hầu…), viêm khớp có liên quan đến cột sống. 
Theo BS Hồ Phạm Thục Lan: "Hầu hết các trường hợp đau cổ sẽ tự cải thiện trong một-hai tuần với các thuốc giảm đau, kháng viêm thông thường, hơn 90% hết đau sau tám tuần. 
Tuy nhiên, một số ít trường hợp đau cổ do nguyên nhân nguy hiểm như nhiễm trùng, bệnh lý đốt sống thực thể, ung thư... thường đi liền với một số triệu chứng báo động như tê, yếu lan theo cánh tay, bàn tay; đau tăng khi nằm xuống và đánh thức bệnh nhân vào ban đêm; đau cổ kèm triệu chứng toàn thân nóng sốt, mệt mỏi, sụt cân; đau xuất hiện sau chấn thương, té ngã kèm yếu liệt chi; đau không thuyên giảm khi điều trị với thuốc. 
Trong những trường hợp này, bệnh nhân cần đến ngay một trung tâm y tế thực hiện một số xét nghiệm chuyên biệt để chẩn đoán bệnh gồm: chụp MRI cột sống cổ, đo điện cơ và tốc độ dẫn truyền thần kinh, chụp CT-scan đa lát cắt. Đối với trường hợp đau cổ do nguyên nhân gây chèn ép rễ thần kinh hoặc tủy sống, phẫu thuật cột sống cổ có thể cần thiết nhưng chỉ thực hiện sau khi thất bại với điều trị nội khoa tích cực".