| 
 Thoái hóa xương sụn cột sống trước (a) và sau điều trị (b) trên phim Xquang. | 
Thoái
 hóa xương sụn thiếu niên (Juvenile Osteochondrosis) là một nhóm bệnh 
hay gặp ở trẻ em đang tuổi phát triển nhưng chưa rõ nguyên nhân. Người 
ta cho rằng có thể yếu tố vi chấn thương lặp đi lặp lại là nguyên nhân 
khởi phát bệnh. Từ đó dẫn đến sự giảm hay mất máu nuôi dưỡng tới vị trí 
trung tâm cốt hóa ở đầu xương của một số xương, gây tổn thương trung tâm
 cốt hóa, hoại tử tại chỗ, mọc xương tân tạo, hậu quả là xương phát 
triển không bình thường.
Các dạng thoái hóa xương sụn tuổi thiếu niên 
Do trong quá trình phát triển, cơ thể có rất nhiều xương với nhiều 
điểm cốt hóa khác nhau cho nên bệnh có thể gặp ở rất nhiều vị trí với 
các tên bệnh khác nhau. Nhóm có tổn thương ở cột sống gọi là bệnh gù đau
 thiếu niên Scheuermann. Nhóm có tổn thương ở khớp, xương như bệnh dẹt 
chỏm xương đùi có tổn thương ở chỏm xương đùi. Nhóm có tổn thương biểu 
hiện ở ngoài khớp hoặc không có đầy đủ những đặc điểm của nhóm bệnh 
thoái hóa xương sụn tuổi thiếu niên (do không còn ở tuổi thiếu niên hoặc
 do vị trí bệnh không đặc hiệu). Dấu hiệu nhận biết bệnh tương đối khó 
khăn do bệnh tiến triển âm ỉ, đau ít tại vị trí xương bị tổn thương. Đa 
số các các trường hợp mắc bệnh Sever hay bệnh Freiberg bệnh tự khỏi, 
không đau, xương không biến dạng. Ngược lại bệnh Legg- Perthes-Calve hay
 gây đau nhiều, để lại di chứng nặng nề, thường cần phải thay chỏm xương
 đùi.
Một số bệnh thường gặp
| 
 Hình ảnh dẹt chỏm xương đùi trên phim Xquang. | 
Thoái
 hóa xương sụn cột sống (Spinal Osteochondrosis) là một bệnh gây biến 
dạng cột sống ngực hoặc cột sống thắt lưng hay gặp ở trẻ em. Lâm sàng 
bao gồm triệu chứng đau âm ỉ tại khu vực tổn thương, cảm giác tức nặng, 
thường cách quãng không liên tục và liên quan đến hoạt động thể lực, 
giảm khi nghỉ ngơi. Khám bệnh nhân thấy gù cột sống, có thể có vẹo gây 
giảm, hạn chế vận động rõ. Co cơ cạnh cột sống, đặc biệt ở ngay trên và 
dưới vị trí gù. Các triệu chứng thần kinh do chèn ép hiếm khi gặp. Xét 
nghiệm thường không có bất thường. Hình ảnh Xquang điển hình của bệnh: 
trên phim nghiêng thấy hình gù cột sống, mất tư thế ưỡn; thân đốt sống 
hình chêm, tăng đường kính trước sau thân đốt, khe khớp giữa các đốt 
sống bị hẹp, có thể có calci hóa ở sụn khớp. Bề mặt thân đốt sống không 
đều, có thoát vị nội khớp tạo thành hình ảnh khuyết ở bề mặt đốt sống 
(hạt Schmorl). Trên phim thẳng thấy cột sống có thể vẹo. Tiêu chuẩn chẩn
 đoán bệnh Scheuermann bao gồm: cột sống gù tạo thành một góc trên 400, 
hẹp khe đốt sống kèm bất thường bề mặt thân đốt sống, góc xẹp hình chêm 
trên 500 của ít nhất 3 thân đốt sống kế tiếp. Điều trị bao gồm bảo tồn 
nội khoa và chỉnh hình ngoại khoa. Điều trị nội khoa phục hồi chức năng,
 dùng thuốc giảm đau, nghỉ ngơi, tránh công việc mang vác nặng. Khi gù 
nặng hơn cần mặc áo nẹp cột sống giữ cho lưng thẳng kèm các biện pháp 
phục hồi chức năng cột sống kết hợp thư giãn nghỉ ngơi, nằm trên giường 
cứng. Điều trị phẫu thuật ít khi chỉ định trong bệnh Scheuermann, chủ 
yếu khi đau nhiều không đáp ứng với điều trị bảo tồn nội khoa và gù gây 
mất thẩm mỹ. Nhìn chung điều trị cần căn cứ vào tuổi tác, mức độ biến 
dạng cột sống, mức độ đau và đánh giá hiệu quả chức năng đạt được sau 
mỗi giai đoạn.
Bệnh dẹt chỏm xương đùi: do tổn thương ở đĩa sụn phát triển ở đầu 
xương gần chỏm xương đùi. Bệnh hay gặp ở tuổi từ 3-12, hay gặp ở nam 
giới hơn (gấp 4-5 lần nữ). Tổn thương thường ở một bên, có thể gặp ở hai
 bên (15- 20% trường hợp). Triệu chứng đau tự nhiên ở khớp háng, gối 
hoặc vùng đùi, đi lại khập khiễng. Khám thấy hạn chế vận động khớp háng,
 đặc biệt động tác xoay trong hay dạng, có thể teo cơ nếu ở giai đoạn 
muộn. Chân tổn thương thường ngắn hơn chân lành. Xét nghiệm máu thường 
không phát hiện gì đặc biệt. Chụp Xquang khớp háng, đặc biệt ở tư thế 
dạng chân (chân ếch) có giá trị chẩn đoán: chỏm xương đùi bên tổn thương
 nhỏ hơn bên lành, có thể dẹt hẳn chỏm; có xơ hóa và hình ảnh giảm thấu 
quang ở vùng tổn thương dưới sụn; có thể có các nang xương nhỏ ở vùng cổ
 xương đùi. Thường chia 5 giai đoạn tổn thương trên Xquang và tiến triển
 bệnh: giai đoạn ngừng phát triển của đầu xương biểu hiện bên tổn thương
 chỏm xương đùi nhỏ hơn, khe khớp rộng hơn; giai đoạn gãy xương dưới 
sụn: hình vạch tăng thấu quang ở vùng cổ nối với chỏm; tiêu xương; thoái
 hóa thứ phát với mọc xương tân tạo; giai đoạn ổn định. Mục đích điều 
trị: cải thiện, duy trì biên độ vận động khớp háng, giảm sức nén lên 
chỏm, giữ cho chỏm ở trong ổ cối, kéo giãn khớp háng tránh co cơ. Việc 
điều trị bao gồm nghỉ ngơi hợp lý, tránh vận động mạnh, tập phục hồi 
chức năng, nẹp khớp háng khi cần để tránh trật khớp khỏi ổ cối. Thuốc 
điều trị triệu chứng giảm đau, giãn cơ. Phẫu thuật chỉnh sửa những biến 
dạng nhiều ở chỏm xương, khi cần có thể xét thay khớp háng (thường khi 
trẻ đến tuổi trưởng thành). Nhìn chung tuổi khởi phát bệnh càng nhỏ tiên
 lượng càng tốt, khởi phát sau tuổi lên 10 thì trẻ dễ bị thoái hóa khớp 
háng thứ phát.   
ThS. Bùi Hải Bình 
(Khoa Cơ Xương Khớp-Bệnh viện Bạch Mai)
 
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét