Đau vùng quanh vai là triệu chứng do nhiều nguyên nhân gây nên trong đó hội chứng chèn ép dưới mỏm cùng vai là nguyên nhân thường gặp
Đau vùng quanh vai là triệu chứng do nhiều nguyên nhân gây nên
trong đó hội chứng chèn ép dưới mỏm cùng vai là nguyên nhân tương đối
thường gặp, đặc biệt ở bệnh nhân tuổi trung niên và quan trọng hơn là có
thể điều trị có hiệu quả. Hội chứng này là tình trạng khoang giữa mỏm
cùng vai và các gân cơ chóp xoay bị thu hẹp, tình trạng này dẫn đến các
bệnh lý vùng vai như: viêm túi hoạt dịch, viêm gân, viêm khớp và tổn
thương gân cơ chóp xoay.
Triệu chứng của hội chứng chèn ép dưới mỏm cùng vai
Khi
bị hội chứng chèn ép dưới mỏm cùng vai, bệnh nhân có biểu hiện đau ở
khớp vai khi dang tay hay đưa trước cánh tay. Hầu hết bệnh nhân than
phiền bị khó ngủ do bị đau khi nằm nghiêng qua bên vai bị đau. Khi có
cơn đau chói xuất hiện khi cố gắng xoay tay ra túi quần phía sau là dấu
hiệu khá rõ ràng của hội chứng chèn ép dưới mỏm cùng vai. Dần dần các
cơn đau trở nên nặng hơn, bệnh nhân không dám cử động vai dẫn đến khớp
vai bị cứng. Nếu vai trở nên yếu và bệnh nhân không thể tự dang tay được
thì có thể gân chóp xoay đã bị rách.
Chụp
Xquang khớp vai là cần thiết để tìm các dấu hiệu bất thường của cấu trúc
xương hay viêm khớp. Một số người có tình trạng mỏm cùng hạ thấp hơn so
với bình thường làm hẹp khoang dưới mỏm cùng được xác định trên Xquang.
Gai xương nếu có cũng sẽ thấy rõ trên Xquang.
Chụp
MRI được chỉ định khi nghi ngờ có tổn thương rách chóp xoay, viêm gân
hay bệnh lý ở sụn viền. Đôi khi siêu âm vùng vai cũng cho thấy được hình
ảnh rách chóp xoay.
Một nghiệm pháp được sử
dụng nhằm loại trừ các bệnh lý ở vùng cổ gây đau ở khớp vai: tiêm một
lượng thuốc tê nhất định vào khoang dưới mỏm cùng, nếu bệnh nhân đỡ đau
ngay thì nguyên nhân gây đau vai là do hội chứng chèn ép dưới mỏm cùng
vai.
Hội chứng hẹp khoang dưới mỏm cùng vai, do đâu?
Các
động tác của khớp vai, đặc biệt là động tác đưa tay quá đầu được thực
hiện bởi 2 nhóm cơ chính là: cơ delta và nhóm các cơ chóp xoay (gồm có 4
cơ là cơ trên gai, cơ dưới gai, cơ dưới vai và cơ tròn bé). Nhóm các cơ
chóp xoay hợp với nhau tạo thành một gân rất chắc bám vào đầu trên
xương cánh tay gọi là gân cơ chóp xoay. Khi thực hiện động tác dạng cánh
tay quá đầu, các cơ này trượt trong khoang dưới mỏm cùng vai. Khoang
này nằm dưới mỏm cùng vai, trong khoang có gân chóp xoay và các túi hoạt
dịch có tác dụng bôi trơn khi gân cơ chóp xoay di chuyển. Khi khoang
này bị hẹp lại, thường do nguyên nhân thoái hoá hoặc chấn thương, gân cơ
chóp xoay và các túi hoạt dịch bị chèn ép, từ đó sẽ dẫn đến viêm túi
hoạt dịch, viêm gân chóp xoay. Nặng hơn sẽ dẫn đến rách chóp xoay.
Các
nguyên nhân dẫn đến hẹp khoang dưới mỏm cùng vai có thể là chấn thương,
các động tác lặp đi lặp lại (thường gặp ở những người chơi các môn thể
thao phải đưa tay quá đầu hoặc người lao động thường xuyên phải có các
động tác dang tay quá đầu). Một nguyên nhân khác cũng tương đối thường
gặp là sự hình thành các chồi xương trong tổn thương của bệnh lý thoái
hoá.
Khi nào cần phải phẫu thuật?
Giai
đoạn đầu điều trị sẽ là điều trị giảm đau, kháng viêm. Các phương pháp
thường sử dụng là nghỉ ngơi, chườm đá phối hợp với thuốc kháng viêm như
aspirin, naproxen, diclofenac... Bác sĩ sẽ theo dõi đáp ứng của bệnh
nhân, trong một số trường hợp có thể sử dụng các phương pháp như siêu
âm, chiếu tia hồng ngoại để tăng cường lượng máu tới các mô ở khớp vai.
Khi bệnh nhân đỡ đau sẽ tiến hành các bài tập vật lý trị liệu.
Nếu
các biện pháp trên không mang lại hiệu quả, bác sĩ có thể tiêm steroid
trực tiếp vào khoang dưới mỏm cùng. Tuy nhiên steroid có thể gây đứt gân
cũng như các tác dụng phụ về lâu dài nên nó không phải là phương pháp
điều trị lâu dài cho hội chứng chèn ép dưới mỏm cùng vai cũng như các
bệnh lý khác ở vùng khớp vai.
Phẫu thuật được
chỉ định khi không có cải thiện nào sau 6 tháng đến 1 năm điều trị bảo
tồn. Có hai phương pháp hiện đang được sử dụng là mổ mở và mổ nội soi,
cả hai phương pháp đều có thể sửa chữa các tổn thương và làm giảm áp lực
đè ép lên túi hoạt dịch và chóp xoay.
Ngày
nay, phẫu thuật với kỹ thuật nội soi phổ biến hơn do những ưu việt trong
việc cải thiện các triệu chứng đau và tính thẩm mỹ. Mục tiêu của phẫu
thuật là nhằm làm rộng khoảng cách giữa mỏm cùng và gân chóp xoay bằng
cách làm sạch các tổn thương thoái hoá, các chồi xương và một phần của
mỏm cùng vai. Nếu có tổn thương rách chóp xoay có thể sẽ được phục hồi
đồng thời. Sau mổ cánh tay sẽ được treo hay mang nẹp để bất động.
Hầu
hết các trường hợp sẽ được tập vật lý trị liệu nhằm tránh cứng khớp,
hạn chế phù nề sau mổ. Chườm lạnh sau mổ giúp co mạch máu làm hạn chế
phản ứng viêm đau sau mổ. Giai đoạn sau là tập mạnh gân cơ chóp xoay.
Cần tập phục hồi chức năng theo sự hướng dẫn của kỹ thuật viên vật lý
trị liệu.
Điều trị phục hồi chức năng
Điều
trị phục hồi chức năng đóng vai trò rất quan trọng, không chỉ trong các
trường hợp không phẫu thuật mà ngay cả trong trường hợp sau phẫu thuật.
Phục hồi chức năng nhằm mục đích tránh teo cơ và cứng khớp đồng thời
phục hồi sức mạnh của các cơ sau một thời gian bị bệnh đã bị kém đi. Đối
với phục hồi chức năng khớp vai, quá trình này sẽ diễn ra rất chậm, bắt
đầu là những bài tập vận động thụ động kéo dài trong vài tuần, sau đó
mới là những bài tập chủ động. Quá trình tập này có thể kéo dài từ vài
tuần đến vài tháng tuỳ theo việc có thực hiện phẫu thuật tạo hình lại
gân chóp xoay hay không.
Trong một số trường
hợp, tổn thương của chóp xoay lớn hoặc là diễn biến đã lâu, tình trạng
cơ yếu kéo dài, việc phục hồi chức năng có thể chỉ cải thiện một phần,
đôi khi bệnh nhân phải tập để thay đổi thói quen sử dụng cánh tay bị tổn
thương.
Theo ThS. Trần Trung Dũng, Sức khỏe và đời sống
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét