Viêm khớp dạng thấp là trường hợp viêm nhiều khớp mạn tính, có thể gặp ở nam, nữ nhưng nữ giới thường mắc hơn (tỷ lệ giữa nam và nữ là 1/3).
Bệnh viêm khớp dạng thấp (VKDT) là một bệnh mạn tính kéo dài và
có thể để lại nhiều hậu quả xấu cho người bệnh. Bệnh có được chữa khỏi
hay không còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố: chẩn đoán sớm, đúng, điều trụ
đúng phác đồ và người bệnh phải kiên trì diều trị. Bệnh gặp ở nữ giới
nhiều hơn nam (tỷ lệ 3/1).
Viêm khớp dạng thấp
(VKDT) là trường hợp viêm nhiều khớp mạn tính, có thể gặp ở nam và nữ
nhưng nữ giới thường mắc hơn (tỷ lệ giữa nam và nữ là 1/3).
Nguyên nhân và biểu hiện của viêm khớp dạng thấp
Có
nhiều giả thuyết cho rằng, VKDT là bệnh tự miễn bởi có những bằng chứng
cho thấy vai trò quan trọng của các đáp ứng miễn dịch của các
cytokines, các lympho T, yếu tố cơ địa, yếu tố di truyền… Do chưa tìm
thấy nguyên nhân gây VKDT một cách chắc chắn, nên việc điều trị cũng gặp
không ít khó khăn.

Viêm khớp có thể ảnh hưởng đến sinh hoạt hàng ngày
Bệnh
VKDT thường gặp ở nữ giới, chiếm tỷ lệ khoảng 75%. Mọi lứa tuổi có thể
bị VKDT nhưng tuổi mắc bệnh cao nhất thường từ 30 - 60 tuổi. Các khớp
thường bị viêm sớm nhất và hay gặp nhất là bàn tay, cổ tay rồi đến khớp
bàn chân, khớp ngón chân... Các khớp thường bị sưng, đau kéo dài và đối
xứng nhau.
Bên cạnh các triệu chứng lâm sàng
thì cũng cần làm các xét nghiệm cận lâm sàng như: xác định tốc độ máu
lắng, xác định tỷ lệ CRP (C -Reactive Protein), yếu tố dạng thấp RF
(Rheumatoid Factor), chụp X-quang khớp bị đau… Sau khi đã khám kỹ và có
đủ các kết quả cận lâm sàng thì bác sĩ có thể dựa vào tiêu chuẩn của ACR
của Hoa Kỳ 1987 để chẩn đoán có phải VKDT hay không. Tiêu chuẩn đó cơ
bản như sau: cứng khớp buổi sáng; viêm khớp, sưng phần mềm vùng khớp ở
ít nhất 3 khớp trong số các khớp (khớp ngón gần bàn tay, khớp bàn – ngón
tay, khớp cổ tay, khớp khuỷu, khớp gối, khớp cổ chân, khớp bàn – ngón
chân); viêm đau khớp đối xứng; tăng nồng độ yếu tố dạng thấp RF trong
huyết thanh; trên X-quang có hình ảnh biến đổi của xương (mất vôi, hình
dải hoặc xói mòn hoặc khuyết xương ở bàn tay, bàn chân, hoặc hẹp khe
khớp hoặc dính khớp) và có nốt thấp xuất hiện. Chẩn đoán xác định khi có
≥ 4 tiêu chuẩn.
Người ta thấy rằng VKDT có thể
để lại di chứng biến dạng khớp bị viêm, co quắp các ngón tay, hạn chế
chức năng vận động, teo cơ và có thể bị tàn phế (khoảng từ 10 - 15%).
Cũng cần chẩn đoán phân biệt với một số bệnh có triệu chứng hơi giống
VKDT như: đau nhức xương hoặc mỏi cơ hoặc mỏi khớp, viêm cột sống dính
khớp, viêm khớp phản ứng, viêm khớp vẩy nến là những bệnh thuộc về khớp
nhưng phản ứng huyết thanh về yếu tố RF âm tính, viêm khớp không đối
xứng ở một hoặc nhiều khớp, các bệnh này thường gặp ở nam giới. Hoặc một
số bệnh có liên quan đến khớp nhưng không phải VKDT như: lupus ban đỏ
hệ thống, thoái hóa khớp hoặc viêm khớp do liên cầu nhóm A (S.pyogenes)
gây thấp tim tiến triển…
Nên làm gì khi bị viêm khớp dạng thấp?
Bệnh
VKDT là bệnh mạn tính, kéo dài, để lại nhiều hậu quả xấu mà nguyên nhân
chưa được xác định một cách chắc chắn. Do vậy, khi nghi ngờ bị bệnh
VKDT cần đi khám bác sĩ ngay, tốt nhất là khám bác sĩ chuyên khoa xương
khớp. Khi đã bị bệnh VKDT, cần xác định là điều trị sớm, tích cực, liên
tục và lâu dài. Người bệnh không nên tự mua thuốc hoặc nghe sự chỉ dẫn
của người khác mà mua thuốc điều trị, làm như vậy bệnh không những không
khỏi mà đôi khi còn nặng hơn. Không được tiêm bất cứ loại thuốc nào vào
vùng đau của khớp khi chưa có chỉ định của bác sĩ chuyên khoa khớp.
Đối
với phụ nữ trong thời gian mang thai mà bị VKDT thì phải được chỉ dẫn
thật tỉ mỉ của thầy thuốc chuyên khoa khớp; cần ăn uống đủ chất, làm
việc và chế độ sinh hoạt thật điều độ. Khi sinh con, nếu là con gái cần
đặc biệt quan tâm đến chế độ sinh hoạt tốt cho con, tránh làm việc quá
sức và làm việc trong điều kiện thời tiết lạnh.
Mọi
người bệnh VKDT nên có chế độ sinh hoạt hợp lý và rèn luyện cơ thể đều
dặn nhằm tránh biến dạng khớp, cứng khớp, teo cơ. Hàng tháng nên đi khám
bệnh theo định kỳ để bác sĩ theo dõi tình trạng sức khỏe của mình thuận
lợi hơn, nếu thấy cần kết hợp điều trị giữa nội khoa, ngoại khoa hoặc
vật lý liệu pháp thì bác sĩ sẽ tư vấn kịp thời cho người bệnh biết. VKDT
là một trong những bệnh cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa thầy thuốc,
người bệnh và gia đình bệnh nhân thì hiệu quả điều trị sẽ được tăng lên.
Theo PGS.TS. BÙI KHẮC HẬU, Sức khoẻ và đời sống
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét